Bình giảng bài thơ Chiều tối (trích Ngục trung nhật ký của Hồ Chí Minh)

Nói về đặc điểm những bài thơ trong tập Nhật ký trong tù của Bác, nhà văn Cu ba, Phêlic Pita Rôdrighết nhận xét: "Đôi lúc, bài thơ chi là một phác hoạ phong cảnh đã rung cảm nhà thơ, và đọc nó chúng ta hình dung đương ngắm những cảnh trong bức tranh lụa Việt Nam - đúng như một trong những người dịch thơ Hồ Chi Minh ra tiếng Pháp, Buraden, đã có ý kiến nhận xét - trong đó chỉ bằng vài nét bút lông đã phác hoạ nên nhiều điều vô giá" (Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh - NXB Khoa học xã hội, HN. - 1979). Đọc bài thơ Chiều tối (Mộ) trong tập Nhật ký trong tù của Bác, chúng ta sẽ thấy những nhận xét trên là hết sức chính xác:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mảy trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng

Chòm mảy trôi nhẹ giữa từng không

Chúng ta đều biết những bài thơ ở tập Nhật ký trong tù của Bác ra đời từ một hoàn cảnh thật oái oăm, khồc liệt; viết trong gông cùm, xiềng xích. Tập thơ như một cuốn phim ghi lại thật sinh động cả cuộc hành trình đầy gian lao, vất và: đi trong mưa dầm, nắng đốt, trong gió rét, khi được dừng chân thì lại bị đẩy vào những nhà giam tối tăm và đầy muỗi rệp... Nhưng một điều lạ là suốt cả tập thơ, người đọc không thấy dấu hiệu nào là sự bi quan, chán nản; càng không thấy dấu hiệu của nỗi tuyệt vọng, buông xuôi. Có nhiều lúc Người băn khoăn, trăn trở và nhớ da diết Tổ quốc, đồng chí, đồng bào, nhưng lúc nào cũng cháy sáng niềm tin cách mạng, tâm hồn lúc nào cũng dào dạt Cảm hứng thơ ca và ấm nóng tình đời Ta có thể thấy rõ điếu ấy trong bài thơ Chiều tối có thể nói hình ánh Lò than rực hồng trong bài thơ Chiều tối chính là "điểm ngời sáng trong thơ" (Bese - Dura Không có điểm tựa này, ý tứ của bài thơ sụp đổ, hay nói đúng hơn nội dung tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ mang một nghĩa khác, có một giá trị khác. Một trong những đặc điểm của nhiều bài thơ tuyệt cú luật Đường là câu cuối cùng có một vai trò rất lớn trong câu tứ và làm nổi bật chủ đề thơ. ở bài Chiều tối, nếu chỉ đọc ba câu đầu:

”Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không

Cô em xóm núi xay ngô tối...”

thì đúng là trước mắt chúng ta hiện lên một bức tranh với những nét phác hoạ phong cảnh của rừng núi lúc chiều tà. Một cánh chim mệt mỏi di tìm chốn ngủ, một đám mây cô đơn (cô vân) lững lờ trôi qua, một thiếu nữ vùng sơn cước đang xay ngô... Những hình ành rất thực trong con mắt người tù tuy không phải không có những đường nét ước lệ thường thây ở thơ cổ. Qua cảnh, ta thấy được tâm trạng nhà thơ.

Nguyễn Du viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cảnh trong ba câu đầu rất phù hợp với tâm trạng và tình cảm của người làm thơ: buồn bã và có phần mệt mỏi, đơn côi. Vui làm sao được khi một mình đang lẻ bước trong gông cùm, không mệt mỏi sao được sau một ngày "dãi nắng, dầm mưa”. Bác Hồ không phải là thánh thần, Bác cũng là một con người, cũng buồn trước cảnh chiều tàn, cũng cảm thấy lẻ loi, hiu quạnh khi không có người chia sẻ nơi đất khách, quê người. Hình ánh cánh chim mệt mòi (quyện điểu), đám mây cô đơn (cô vân) và cô gái xay ngô, với những vòng quay đều đều, chậm chạp như nói hộ tâm trạng và tình cảm ấy của Người. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở ba câu đẩu ấy thi Chiều tối không còn là bài thơ của Bác nữa. Nó cũng sẽ chìm lẫn vào nhiều bài thơ tả cảnh buổi chiều và tấm lòng người lữ thứ. Như một đặc điểm rất độc đáo, in đậm trong nhiều bài thơ của Bác Hồ là mạch thơ, hình ảnh thơ, cũng như tư tưởng thơ ít khi tỉnh tại, thường luôn vận động một cách khoẻ khoắn và bất ngờ, luôn hướng tới sự sống và ánh sáng. Ớ bài thơ Chiều tối, chính kết cấu ấy đã làm nổi rõ đặc điểm trên:

”Cô em xóm núi xay ngô tối

Xay hết lò than đã rực hồng”

Cô em xóm núi xay ngô tối

Nếu như ba câu đầu, hình ảnh thơ mang lại cho bạn đọc một ấn tượng buồn bã, đơn côi, và có phần mệt mỏi thỉ câu kết bỗng nhiên đột ngột chuyển mạch, chuyển cảnh, chuyển ý, chuyển tình. Tất cả đều bừng sáng khi "Lò than đã rực hồng". Sự chuyển đổi ở đây đột ngột nhưng cũng rất tự nhiên, khéo léo, tinh vi. Như nhiều người đã nói, câu thơ của Bác trong nguyên bàn không có chữ tối. ở đây không nói tối mà ta vẫn thấy bóng tối đang ập xuống, nói như giáo sư Lẻ Trí Viễn: "Thời gian trôi dân theo cánh chim và làn mây, theo những vòng xoay của cối ngô, quay quay mãi, ma bao túc - bao túc ma hoàn, và đến khi cối xay dừng lại thì "lồ dĩ hồng", lò đã rực hồng, lúc trời tối thì lò đã rực lên" (Đọc lại bản dịch Nhật kỷ trong từ, Tác phẩm mới sổ 8 - 1970). Theo sự chuyển cảnh, tình người củng đã chuyển theo. Câu thơ cuối cùng, với ánh lửa hồng rực rỡ thể hiện niềm vui của con người làm toả sáng, truyền sự ấm nóng lên toàn bộ bức tranh phong cành, như làm tan đi cái cô quạnh, sự mệt mỏi và cái lụi tắt của cảnh chiều nơi rừng núi. Nhà thơ Hoàng Trung Thông khi bình bài thơ này đã cho rằng: "nếu chi dừng lại ở ba câu thơ đầu thì nhà thơ Hồ Chí Minh của chúng ta không khác gì nhà thơ Liễu Tông Nguyên đời Đường với bài thơ Giang tuyết (Sông tuyết)”:

"Thiên sơn điểu phi tuyệt

Vạn kính nhân tông diệt

Cô thuyền xuy lạp ống

Độc điếu hàn giang tuyết"

Nghĩa là:

"Nghìn non bóng chim bay đi đã tắt

Muôn nẻo dấu người mất

Trên chiếc thuyền cô đơn ông già mang tới đội nón

Một mình cầu sông tuyết lạnh".

"Bài thơ lẻ loi quá chừng, lạnh lẽo quá chừng. Nhưng nhà thơ Hồ Chí Minh rất Đường mà lại không Đường một tí nào. Với một chữ hồng Bác đã làm rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất di sự mệt moi, sự uể oải, sự vội vã đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô thiếu nữ xóm núi sau khi xay xong ngô tối" (Hoàng Trung Thông - Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác - Nghiên cứu học tập thơ văn Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội, HN 1979). Như thế, bài thơ Đường như có một sự đối lập giữa cành đầu và cảnh cuối, giữa tinh càm. nỗi lòng của người viết ở ba câu đầu và câu cuối. Trước buồn. sau vui. trước mệt mỏi. vội vã, cô đơn, sau nồng ấm, rực rỡ, tươi sáng. Thực ra ở đây đối lập mà vẫn thống nhất, thống nhất cả ở hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng. Về nghệ thuật, bức tranh đầu chi là cái nền để làm nổi bật cảnh sau, để tạo sự đột ngột, bất ngờ cho câu kết. Về nội dung, cái tình ở đoạn đầu là nỗi niềm riêng của Bác trong cảnh ngộ lúc tù đày giữa núi rừng vắng vẻ lúc chiều muộn Còn ánh lửa hồng cuối bài là niềm vui, dẫu là niềm vui nho nhỏ của "Cô em xóm núi", của cuộc sống thường nhật mà Bác sẵn sàng chia sẻ với người dân lao động. Phải chăng ở đây, Người đã quên hẳn nỗi bất hạnh của riêng mình, quên đi nỗi mệt nhọc, cô đơn để vui với niềm vui hồn nhiên, bình dị của cuộc sống nhân dân lao dộng

Chỉ với một bài thơ bốn câu, đúng là Người chỉ dùng "vài nét bút lông" mà "đã phác hoạ lên nhiều điều vô giá" như Buđaren đã nhận xét. Điều vô giá ấy trước hết là người đọc thấy được tấm lòng và tư tưởng của Bác vừa rất cụ thể, đời thường lại vừa rất lớn lao, vĩ đại; sẵn sàng quên nỗi bất hạnh riêng, hoà với niềm vui chung của cuộc sống con người. Bài thơ cũng cho ta thấy tài nghệ sắc sào và độc đáo của Bác trong một bút pháp riêng: hoà hợp màu sắc cổ điển và hiện đại.

Viết bình luận