Phân tích tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” trong đoạn trích đất nước (trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa Điềm

Phân tích đề

- Đề yêu cầu phân tích về tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” trong đoạn thơ đất nước.

- Về thể loại, đây là kiểu bài phân tích một vấn đề nội dung (tư tưởng) trong một tác phẩm văn học cụ thể.

Cần lưu ý, cũng là kiểu bài phân tích ở một tác phẩm thơ trữ tình, nhưng không phải là: phân tích thơ, phân tích nhân vật, hoặc phân tích hình tượng, tâm trạng... Phân tích một bài thơ bao giờ cũng để tìm thấy những giá trị tư tưởng - thẩm mĩ, hoặc chủ đề. Nhưng ở đây, chủ đề bài thơ gần như có sẵn. Do đó, phân tích là để làm sáng tỏ vấn đề đó.

- Đất nước là một phần của chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng. Chương V là chương hay nhất, thể hiện tập trung tư tưởng - thẩm mĩ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ở bản trường ca. Vì thế, có thể mở rộng liên hệ tới toàn bộ tác phẩm.

Mặt khác, Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Cùng thời, có khá nhiều nhà thơ từng suy ngẫm và bộc lộ tình cảm của mình về đất nước. Liên hệ, so sánh để thấy những khám phá riêng của tác giả, nhưng không vì thế mà suy diễn lan man.

Dàn bài chi tiết

I. Mở bài

Đất nước là một phần của chương V trong bản trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào tháng 12.1971. Đây là chương hay nhất, thể hiện sâu sắc một trong những tư tưởng cơ bản nhất của bản trường ca.

Đất nước trong những điều giản dị

Đất nước cô đọng kết quả nhận thức của tác giả và cũng là của thế hệ trẻ Việt Nam về đất nước - một nhận thức có thể làm điểm tựa để họ xác định vai trò, vị trí của mình trong cuộc đấu tranh vĩ đại của dân tộc.

II. Thân bài

1. Một định nghĩa về đất nước

- Phần mở đầu của đoạn trích như một định nghĩa về đất nước, nhưng đây là định nghĩa theo cách riêng của nhà thơ, không trừu tượng, thuần lí như triết học hay chính trị, mà thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động và gợi cảm.

- Nguyễn Khoa Điềm định nghĩa về đất nước theo cách gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi người. Đất nước hiện lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo, miếng ăn hằng ngày. Nhắc đến đất nước, đồng thời là nhắc đến cha, mẹ, bà, dân mình, nhắc đến gừng cay, muối mặn, nhắc đến hạt gạo, bờ tre... Đây cũng là đỉểm xuất phát của những suy tư ở nhà thơ khi nghĩ về đất nước.

- Hơn nữa, đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt mỗi người, trong anh và em, tức trong từng con người Việt Nam cụ thể:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước

=> Qua cách định nghĩa về đất nước của mình, nhà thơ đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận của từng cá nhân với vận mệnh chung của cả cộng đồng, của đất nước. Đây chính là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nổi lên như một vấn đề cơ bản nhất, có tính quyết định và chi phối hầu như tất cả các vấn đề khác. Từ đó, tác giả đặt vấn đề trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với đất nước một cách tự nhiên:

Em ơi em đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời...

Như vậy, đất nước là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái nhỏ bé và to lớn, giữa cái gần và cái xa, giữa cái cụ thể, vật chất với cái trừu tượng, tinh thần. Đất nước phải ở trong ta chứ không ở ngoài ta.

2. Cảm nhận về đất nước

- Cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật đa dạng, trên nhiều bình diện, từ chiều dài lịch sử (quá khứ - hiện tại - tương lai), đến chiều rộng của không gian - địa lí và nhất là trong bề dày văn hóa - phong tục, lối sống, tâm hồn, tính cách dân tộc. Cả ba bình diện ấy đều có sự gắn bó, thống nhất với nhau.

Đất Nước của Nhân dân, chính Nhân dân sáng tạo nên Đất Nước

- Nhà thơ đã khai thác các thành tố ĐấtNước trong mối quan hệ với không gian - thời gian, với lịch sử và hiện tại. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hóa đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương, từ những câu ca dao quen thuộc. Đất nước lấy không gian sinh tồn của con người (Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm / Đất Nước là nơi ta hò hẹn...). Nhưng sự trường tồn của đất nước lại chính là sự trường tồn của con người, qua con người (Những ai đã khuất / Những ai bây giờ / Yêu nhau và sinh con đẻ cái / Gánh vác phần người đi trước để lại / Dặn dò con cháu chuyện mai sau...).

3. Sự thể hiện tập trung: Đất Nước của Nhân dân, chính Nhân dân sáng tạo nên Đất Nước.

- Tư tưởng Đất Nước của Nhân dân không phải là hoàn toàn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, nhưng được tác giả và các nhà thơ cùng thế hệ nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn (về quan điểm, vai trò nhân dân trong thời đại mới). Điều đó khiến cho mỗi câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm là một khám phá kỳ thú từ những điều quen thuộc, thậm chí đã cũ:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng nên đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút, non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

đây, từng cảnh vật của quê hương qua cái nhìn Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo nên đất nước này, đã đặt tên và ghi dấu cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất. Từ đó, nhà thơ khái quát thành một hình tượng có tính biểu trưng:

ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...

- Tư tưởng “Đất Nước Nhân dân” đã chi phối cách nhìn của nhà thơ về lịch sử dân tộc. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, không nói đến những anh hùng đã ghi danh trong sử sách mà nhấn mạnh đến những người không ai nhớ mặt đặt tên / Họ đã sống và chết / Giản dị và bình tâm, song chính nhờ họ mà dân tộc trường tồn:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu cho con mình tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Mạch suy nghĩ và cảm xúc của bài thơ đã dồn nén, bật ra tư tưởng cốt lõi của toàn bài vừa bất ngờ, vừa giản dị, độc đáo:

... Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.

III. Kết luận

Đọc chương Đất Nước, ta thấy rõ dấu ấn của vốn văn hóa, tri thức nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách nhà thơ nào đó. Nhưng đây là chương tiêu biểu và tinh túy nhất của bản trường ca. Bài thơ tạo nên được những rung động, âm vang trong lòng người đọc chính là nhờ tác giả, từ cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của mình và nhất là từ tình yêu quê hương, đất nước thiết tha gợi lên suy ngẫm của cả một thế hệ trong bối cảnh gian nan và cũng rất hào hùng của dân tộc. Chính vì thế, dù thời gian trôi qua, tư tưởng ấy vẫn mới mẻ trong niềm cảm xúc nồng ấm về đất nước của người đọc hôm nay.

Viết bình luận