Phân tích vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao - trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân. Từ đó nhận xét về nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn

YÊU CẦU

1. Phân tích rõ vẻ đẹp của hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân: vẻ đẹp của con người tài hoa - khí phách - con người lí tưởng mà nhà văn từng ôm ấp, nâng niu và gìn giữ. Vẻ đẹp đó bộc lộ ở cái tài, cái tâm và cái khí phách anh hùng của Huấn Cao - được Nguyễn Tuân miêu tả trong suốt tác phẩm và chói sáng rực rỡ ở cảnh cho chữ cuối truyện. Đó là vẻ đẹp của tài hoa và thiên lương - vẻ đẹp của các nhân vật của Nguyễn Tuân, không chỉ trong Vang bóng một thời mà cả những sáng tác sau Cách mạng.

2. Nêu rõ nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn:

- Sử dụng nhiều cách miêu tả: khi trực tiếp, khi gián tiếp, khi đặc tả...

- Đưa nhân vật vào những tình huống đặc biệt để vẻ đẹp được thử thách và bộc lộ sáng lòa.

- Dùng nhân vật viên quản ngục và thầy thơ lại làm đối sánh để tôn cao nhân vật Huấn Cao.

- Ngôn ngữ trang trọng, cổ kính rất phù hợp với tính cách nhân vật. (phần nghệ thuật này được kết hợp khi phân tích vẻ đẹp của nhân vật).

BÀI LÀM

Trong vườn văn học Việt Nam, đặc biệt là trong trào lưu văn học lãng mạn 1930 - 1945 tỏa ngát những bông hoa muôn màu, muôn sắc. Giữa vườn hoa ngàn sắc tía đó nổi lên một bông hoa ngát hương: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân - tác phẩm viết về "một thời" đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Trong Vang bóng một thời, truyện ngắn Chữ người tử tù có một giá trị riêng, nổi bật. Ai đã từng đọc Chữ người tử tù đều rung động, cảm phục, sùng kính trước vẻ đẹp của người anh hùng sa cơ lỡ vận mà hiên ngang, bất khuât, có tài, có tâm, mến mộ nghĩa khí, đó là Huấn Cao. Huấn Cao là kết tinh, là hội tụ phẩm chất của một con người có nhân, dũng, khí. ông là tập hợp của tất cả những gì tinh túy nhất, thanh tao nhất, tinh khiết nhất.

Tác phẩm Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân

Huấn Cao là một hình tượng thẩm mĩ, một nét đẹp trong cuộc sống đời thường, là một người có nhân cách vẹn toàn, vừa có tài văn, tài võ vừa là người có nghĩa khí. Huấn Cao phảng phất bóng dáng của Cao Bá Quát, là linh hồn của nhà nho kiệt xuất. Cao Bá Quát đã từng sống một cuộc sống tung hoành ngang dọc, là một người có tài, có đức, văn hay chữ đẹp, sống trong giai đoạn triều Nguyễn, dám đứng lên chống lại bọn thực dân phong kiến, chông lại bọn cường quyền, đả kích xã hội phong kiến thối nát, bỉ ổi. Phải chăng, Nguyễn Tuân đã mượn Huấn Cao để ngợi ca Cao Bá Quát và mặt khác dựa vào Cao Bá Quát, khái quát lên một hình tượng Huấn Cao mà cái đẹp của tài hoa hòa hợp với cái đẹp của khí phách, tuy chí lớn không thành nhưng vẫn coi thường hiểm nguy, gian khổ, xem khinh cái chết. Tư thế của Huấn Cao hiên ngang lồng lộng toả sáng trên cái nền đen quánh của tù ngục. Nói đến vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao trước phải nhắc tới cái tài. Huấn Cao là một người viết chữ đẹp: "Chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm". Trong thị hiếu thẩm mĩ của người xưa, từ Trung Quốc đến Việt Nam thì viết chữ đẹp là cả một nghệ thuật cao quý và chơi chữ đẹp là thú chơi thanh cao của các cụ đồ nho xưa. Viết chữ đẹp là biểu hiện của con người có trí thức, một vẻ đẹp hoàn mĩ trong văn hóa truyền thống dân tộc. Nó như một sản phẩm nghệ thuật, như một vật báu mà con người thèm muốn, khát khao. Ngoài ra, Huấn Cao còn có tài bẻ khóa vượt ngục tù, coi nhà tù như nơi không người, ra vào như chơi. Điều đó thể hiện một con người khát khao tự do, hoài bão tung hoành, luôn đấu tranh cho chính nghĩa, chống lại triều đình phong kiến mục nát. Tất cả những tài năng đó làm thành một Huấn Cao có tầm lớn, đi vào trong lòng độc giả như một người anh hùng, một trượng phu đã vượt lên trên tất cả cái bình thường, nhỏ nhoi, hẹp hòi của cuộc đời để vẫy vùng, để "chọc trời khuấy nước". Nhưng trong cái xã hội phong kiến người bóc lột người, nhân tài như lá mùa thu ấy thì Huấn Cao hiện lên là một anh hùng thất thế. Nguyễn Du cũng đã từng viết về Từ Hải - một anh hùng thời đó:

Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn

Song vị "hùm thiêng" Huấn Cao này tuy có sa cơ, lỡ nghiệp nhưng Huấn Cao của chúng ta vẫn hiên ngang, bất khuất, vẫn dùng khí, kiên cường. Do đó, người đọc không chỉ nhận ra Huấn Cao là một người có tài mà ông còn là một người có dũng khí, hiên ngang trước bạo lực cường quyền, trước cái chết đang treo lơ lửng. Hết mực ca ngợi cái tài của Huấn Cao, đồng thời Nguyễn Tuân cũng hết sức trân trọng cái Tâm của Huấn Cao. Bởi "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" (Nguyễn Du) hay như Lục Du, một nhà thơ yêu nước của Trung Quốc thời nhà Tống, sau cuộc đời làm thơ của mình đã khuyên con:

Như quả dục học thi

Công phu tại thi ngoại

(Nếu như quả là con muôn học làm thơ thì công phu là ở ngoài việc chữ nghĩa).

"Cái Tâm" của ông cũng vuông vắn, cao khiết và đầy sức chinh phục như nét chữ của ông vậy. Có lẽ, "phong cách tức là con người" đã được thể hiện rất rõ ở đây.

Mặc dù viết chữ Nho đẹp "Có được chữ ông Huấn mà treo là có một báu vật trên đời" lẽ ra ông phải trung thành với đạo thánh hiền, giữ mình theo lễ nghĩa Nho giáo, trung với vua, một lòng một dạ với triều đình. Nhưng không! Huấn Cao không chịu vào luồn ra cúi, không chịu sông trong cảnh nhung hoa, áo gấm, "cá chậu, chim lồng", thà làm "giặc triều đình" sông theo chính nghĩa mà mình đã vạch ra. Sự nghiệp dang dở, bị bắt, bị kết vào mức án cao nhất là tử hình ông vẫn không hề tỏ ra run sợ, không mảy may tiếc nuôi, hối hận. Huấn Cao - ngôi sao Hôm chính vị ấy - bước vào nhà ngục trong tư thế thật hiên ngang, khí phách, ung dung. Trong con mắt của bọn lính ông thật cao thượng, bất khuất, khinh đời. Ngay cả với gông xiềng, với cái án tử hình sắp đến gần, thái độ của ông vẫn ngang tàng, lạnh lùng. Huấn Cao ung dung, lãnh đạm, dỗ gông trước mặt chúng nó, không thèm chấp mấy lời đe dọa của bọn lính "chúc mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng đánh thuỳnh một cái". Ông bình thản ăn những món ăn do quan ngục biệt đãi, "coi như mình có quyền hưởng thụ", ông làm việc theo ý mình, hoàn toàn tự chủ. Ông ngước mắt nhìn lên nhà lao, lên những bộ mặt bất nhân nham nhở. Cái nhìn hiên ngang đó không run sợ, không căm hờn, oán giận, không van xin, cầu khẩn. Đó là cái nhìn của một kẻ dám làm, dám chịu.

Thậm chí ông còn khinh bạc, nặng lời khi chưa rõ ý tốt của quản ngục: "Người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân tay vào đây".

Con người "khuấy nước, chọc trời" này chẳng biết nể sợ ai. Nếu trong đời thường, "trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ", "nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đôì bao giờ", thì khi sa vào chốn giam cầm thì mấy chén rượu, vài bữa cơm thịt của hai con người vô danh tiểu tốt ở chôn ngục tù bé nhỏ này làm sao mà lung lạc được ông hay vì quyền uy mà làm ông run sợ. Thật đúng là nhân cách lí tưởng mà con người của ngàn năm qua vẫn ao ước: "Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất". Cái thái độ khinh đời, ngang tàng đó phải chăng đă làm cho viên quản ngục ngây ngất, kính nể. Thái độ kính phục của quản ngục gợi cho ta nhớ đến một trong những đoạn hay nhất của bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô, đoạn Người cầm quyền khôi phục uy quyền. Trong đó, kẻ có quyền hành trong tay luôn bắt bớ, đánh đập, hành hạ, xúc phạm con người một cách không nương tay, không thương tiếc là thanh tra Gia-ve đã bị khuất phục trước vẻ đẹp nhân cách của người tù khổ sai mà hắn suốt đời săn lùng là Giăng-van-giăng. Thì ra, quyền lực không phải là uy quyền, bạo lực, là gông cùm, xiềng xích. Quyền lực là cái đẹp, phẩm chất Người, chủ nghĩa nhân đạo, là thiên lương vẫn có uy quyền riêng bất khả chiến thắng. Chính vì thế, Huấn Cao đã mang đến cho chốn lao tù, cho cái địa ngục sống này một ánh sáng kì ảo, huyền diệu, lung linh, chói lọi, soi sáng đạo lí làm người. Thiên lương cao đẹp của ông là một vầng hào quang tỏa sáng rực rờ trên bầu trời đầy u ám của nhà tù.

Huấn Cao - vầng hào quang chói lọi này không những là một người có dũng, trí mà còn là một con người có trái tim nhân hậu. Khi biết được thiện ý của quản ngục, Huấn Cao đã rất cảm động.

Từ đó, ta thấy ông Huấn là người có lòng bao dung độ lượng, chià sẻ nỗi niềm cùng với hai người bạn mới mà suýt nữa ông đã đánh mất: "Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ". Sự biệt đãi bằng vật chất và thái độ ân cần không làm cho trái tim sắt đá kia phải mềm lòng. Chính "cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài" và nhừng "sở thích cao quí", hướng về văn minh, văn hóa mới cảm hóa được trái tim dường như được đúc bằng thép ấy. Thái độ "biệt nhỡn liên tài" của Huấn Cao đối với quản ngục không phải là sự "liên tài" sự trả ơn đốì với những người đã đối xử tử tế, biết chơi chừ của mình mà là sự trân trọng, cảm động trước một nhân cách "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Quản ngục sống giữa bùn nhơ nhớp nháp của lao tù mà vẫn giừ được Thiên lương, biết trọng người tài, kính cái đẹp thì thật là đáng cảm phục. Đó cũng là một đỏa sen trong bùn.

Vẻ đẹp tuyệt dịu tỏa ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ

Ánh hào quang rực rỡ, vẻ đẹp tuyệt dịu tỏa ra rất rõ ở cảnh Huấn Cao cho chữ. Nó bộc lộ trọn vẹn nhất vẻ đẹp của nhân cách Huấn Cao. Ớ đây vẻ đẹp này tỏa hương thơm ngát hơn lúc nào hết. Dưới ngòi bút tài ba Nguyễn Tuân, một cảnh tượng đầy kịch tính đã diễn ra, một cảnh tượng "xưa nay chưa từng có". Đó là sự tương phản giữa một bên là gian nhà lao ẩm thấp, tối tăm bẩn thỉu, "một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián" với một bên là tấm lụa trắng tinh, căng phẳng và với ánh sáng của một bó đuốc tẩm dầu đang cháy rừng rực. "Ba đầu người chăm chú trên một tấm lụa bạch nguyên vẹn".

Nó là sự trái ngược của sự tàn bạo, đánh đập, tra khảo dã man với ánh sáng của một nền văn minh, văn hóa. Đó còn là sự mâu thuẫn giữa bóng tối và ánh sáng, cái xấu và cái đẹp, cái ác và cái thiện, cái chết và cái sống, cái xấu xa, đê tiện và cái trong trẻo, cao thượng. Ngòi bút dựng cảnh, dựng người của Nguyễn Tuân rất giàu tính chất tạo hĩnh với trình độ nghệ thuật điêu luyện, sắc sảo như Vũ Ngọc Phan nhận xét: "Gần đạt tới sự toàn mĩ".

Dưới ánh sáng của bó đuốc đỏ rực - bó đuốc của trí tuệ, của niềm tin, của hi vọng và trong khung cảnh thật nghiêm trang, thật thiông liêng này Huấn Cao dồn hết tâm linh, sinh lực vào từng nét chữ. Ông không mảy may lưu ý gì đến cái xấu xa, cái hôi hám, bẩn thỉu đang tồn tại mà hoàn toàn bị thu hút, bị quyến rũ vào một sự vật: tấm lụa bạch nguyên vẹn. Đúng thế, ở đây chỉ có cái đẹp, cái cao thượng mới thực sự tồn tại. Chính tấm lụa trắng tinh này mà ông Huấn Cao đang cho ra đời những con chữ tuyệt tác ấy mới thực sự có sức mạnh, ở đây, không còn là một Huấn Cao tử tù nữa. Chỉ còn là một Huấn Cao tự do nhất, sống động nhất. Cái giá treo cổ kia cũng không còn nữa mà chỉ có cuộc sống vĩnh hằng của chân lí về cái đẹp. Ngôi sao sáng - Huấn Cao - đang phát quang bừng tỉnh cái không gian u tối, phá vỡ cái màn đêm ngự trị ngàn đời ở đây. Huấn Cao như đem đến nơi này một thế giới khác, thế giới văn hóa. vẻ đẹp cao nhân đó đã làm cho "viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực". Tự nhiên, ở nhà ngục này có sự thay bậc, đổi ngôi, có sự chuyển hóa vị trí, vị thê xã hội của con người. Nó nói lên một sự thật mà đầy tính lãng mạn. Giờ phút này và tại nơi đây không phải quản ngục làm chủ mà người tù làm chủ. Sức mạnh, quyền lực của cái đẹp và chân lí là thế. Cái đẹp và cái chân lí tồn tại trên đời, thể hiện sức mạnh, quyền uy theo cách riêng của nó.

Nó không khuất phục người ta bằng bạo lực, nó chinh phục người ta bằng tự bản chất của nó. Nó không giày xéo, áp đặt con người để bắt người ta phải tuân theo nó, trái lại, nó vực con người ta vươn lên, đứng dậy, tự nguyện đi theo nó để hướng tới cái chân, thiện, mĩ, trở nên trong sáng và tốt đẹp hơn. Và ở đây, "cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp hèn, cái đẹp nâng đờ con người" (Đôxtôiepxki). Cái đẹp đăng quang, cái xấu đă phải chìm xuông nhường chỗ cho cái đẹp. Cái đẹp đã tồn tại, sẵn sàng và rất cần sự đánh thức cái Thiên lương (bản tính tốt đẹp sẵn có ở mỗi con người).

Huấn Cao cho chữ như chuyển giao một nhân cách - nhân cách tự do, chuyển giao cái đẹp để cái đẹp mãi mãi sinh sôi nảy nở, đi vào cõi bất tử vĩnh hằng. Hình tượng nhân vật Huân Cao được khắc họa bằng ngòi bút lãng mạn cứ sừng sững, hiên ngang hiện lên như muôn cất bổng lên, phá vờ chốn lao tù, phá vỡ cái cuộc sông đang tràn ngập màn đêm, ngột ngạt trì trệ: "Tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã (...). Ớ đây, khó giữ được thiôn lương cho lành vững...".

Phải chăng đó là quan niệm thẩm mĩ của Huấn Cao, hay cũng chính là của tác giả Nguyễn Tuân: cái đẹp phải gắn với cái thiện, cái đẹp không thổ ở chung với cái xấu, cái ác. Sự chân thành, bộc bạch giản dị đó của Huấn Cao đã khiến cho ngục quản cảm động vái người tù một cái và nói một lời thật cảm động: "Kẻ mê muội này xin bái lĩnh". Chính Cao Chu Thần cũng có một câu nói thật đẹp:

Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

(Một đời chỉ biết cúi đầu vái lạy hoa mai).

Cái cúi đầu của quản ngục trước con người tài hoa, đầy dũng khí Huấn Cao này chẳng khác gì Cao Bá Quát cúi đầu trước hoa mai vậy.

Nói tóm lại, Huấn Cao là một con người tích tụ những phẩm chất tôt đẹp nhất. Tuy bị cầm tù về nhân thân nhưng lại rất tự do về nhân cách, đúng như Bác Hồ - vị Cha già kính yêu của dân tộc đã nói:

Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao

Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần càng phải cao

Trước cái chết kề cận, cái chết giáp bên nhưng con người nhân, trí, dũng đó vẫn hiên ngang anh dũng, lạc quan, yêu đời, như chị Võ Thị Sáu - nữ chiến sĩ dũng cảm, anh hùng của dân tộc Việt Nam:

Đi giữa hai hàng lính

Vẫn ung dung mỉm cười

Hay nói khác đi, Huấn Cao dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân là biểu tượng cho cái đẹp trong bối cảnh lịch sử đầy rẫy những xấu xa, tội ác, biểu tượng cho Thiên lương. Con người sống vượt lên trên những hiện thực tầm thường tăm tối để tỏa sáng, để vĩnh cửu, để bất diệt, truyền cho người đời phẩm giá làm người, những phẩm giá tiêu biểu cho đạo lí dân tộc.

Chung quy lại, dựng nên hình tượng ông Huấn Cao với vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ giữa chốn lao tù ẩm thấp, chật chội, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm cảm phục sâu sắc đối với những anh hùng xả thân vì nghĩa lớn. Nhà văn đã sử dụng ngòi bút tả thực đầy kịch tính kết hợp việc khắc họa tính cách nhân vật và ngòi bút miêu tả phong cảnh mang tính hiện thực lẫn lãng mạn. Những chi tiết lãng mạn trong truyện có lẽ là lời nhắn gửi của Nguyễn Tuân: Hãy vững tin vào cái đẹp, như Bielinxki nhận xét về cảm hứng lãng mạn: "Cảm hứng lãng mạn là khát vọng đối với tất cả những gì đẹp đẽ và cao quý". Có thể nói Chữ người tử tù với bút pháp sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, với ngôn ngữ văn xuôi giàu có và góc cạnh, với vẻ đẹp tuyệt vời của Huấn Cao, tác phẩm xứng đáng là một áng văn chương một thời vang bóng và nó mãi mãi "vang bóng" trong bạn đọc nhiều thời.

Viết bình luận