Cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về tinh thần quyết chiến, quyết thắng của nhân dân Đại Việt trong “Bình Ngô đại cáo”

Với nguồn cảm hứng dồi dào, phong phú, Nguyễn Trãi đã dành phần lớn trang để khắc hoạ lại quá trình cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu khó khăn gian khổ đến những ngày thắng lợi vẻ vang. Đây là đoạn văn dài nhất bài Cáo. Tuy nhiên, người đọc không chỉ thấy ở đoạn văn một lượng thông tin về diễn biến của cuộc khởi nghĩa với năm tháng và sự kiện. Bám chắc vào cái sườn lịch sử, tác giả cho ta thấy cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hiện lên với tất cả tính chất phong phú, lớn rộng và sinh đọng của nó.

Là người có năng lực hồi tưởng tuyệt vời, Nguyễn Trãi có khả năng tái hiện lại tất cả diễn biến giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa. Nhưng trong bài Cáo, như ta thấy, tác giả chủ yếu tập trung khắc hoạ hình tượng Lê Lợi. Khắc hoạ hình tượng Lê Lợi, tác giả lại chủ yếu làm nổi bật đời sống tâm lí của người anh hùng. Đây quả có ý đồ nghệ thuật.

Nguyễn Trãi khắc hoạ thành công hình tượng người anh hùng Lê Lợi

Lúc Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, Lê Lợi đã trở thành hoàng đế với vương miện rực rỡ hào quang chiến thắng, cần phải tái hiện lại hình tượng Lê Lợi buổi đầu khởi nghĩa, vẫn là để ngợi ca nhưng không quá mức thành xư phụ. Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất giữa con người bình thường và lãnh tụ cuộc khởi nghĩa. Hình tượng Lê Lợi hiện lên qua những lời tự thuật:

Du phấn tích Lam Sơn, thê thẩn hoang dã.

Lê Lợi - con người bình thường từ nguồn gốc xuất thân (chốn hoang dã nương mình), đến cách xưng hô khiêm nhường (đại từ dư với nghĩa là tôi, ta, chưa phải là trẫm như sau này). Nhưng Lê Lợi là người có lòng căm thù giặc sâu sắc (há đội trời chung, thề không cùng sống), có lí tưởng hoài bão lớn (tấm lòng cứu nước vẫn đăm đăm muốn tiến về đông), có quyết tâm cao thực hiện lí tưởng (đau lòng nhức óc, quên ăn vì giận, những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi). Qua sự tái hiện hình tượng Lê Lợi - con người bình thường và người anh hùng, tác giả đã phần nào nói lên tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Nỗi lòng Lê Lợi rất giống nỗi lòng Trần Quốc Tuấn - người anh hùng kháng Nguyên thuở trước: Cùng căm giận trào sôi (Trần Quốc Tuấn: ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa. Lê Lợi: đau lòng nhức óc), cùng nuôi chí lớn (Trần Quốc Tuấn: tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối. Lê Lợi: nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận), cùng một quyết tâm sắt đá (Trần Quốc Tuấn: dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ... Lê Lợi: những trằn trọc trong cơn mộng mị, chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi...).

Khi khắc hoạ hình tượng Lê Lợi, tác giả có sử dụng điển nếm mật nằm gai nói về Việt Vương Câu Tiễn. Nhưng người anh hùng đất Lam Sơn hoàn toàn khác người phục thù núi Côi Kê. Lê Lợi là anh hùng kiểu Trần Quôc Tuấn. Tuy nhiên giữa hai người có những điểm khác nhau do hoàn cảnh lịch sử cụ thể đem lại. Điều cần nhấn mạnh là chính cảm hứng về truyền thống anh hùng của dân tộc đã giúp Nguyễn Trãi khắc hoạ thành công hình tượng người anh hùng Lê Lợi.

Với hoài bão và bầu nhiệt huyết yêu nước, mặc dù vừa khi cờ nghĩa dấy lên, chính lúc quân thù đang mạnh, Lê Lợi cùng nghĩa quân phải vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ: thiếu nhân tài, thiếu quân, thiếu lương, nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ manh lệ chi đồ tứ tập, nhờ phụ tử chi binh nhất tâm, cuộc khởi nghĩa đã vượt qua khó khăn buổi đầu để đi đến tổng phản công giành thắng lợi.

Về lịch sử, từ năm 1418 đến 1424 là sáu năm gian khổ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Bình Ngô đại cáo chỉ nhắc đến hai sự kiện:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Khi Khôi Huyện quân không một đội

Đó là hai sự kiện có tính chất tiêu biểu cho những khó khăn gian khổ của cuộc khởi nghĩa đồng thời tiêu biểu cho tinh thần lạc quan của người Việt Nam: lạc quan ngay trong hoàn cảnh đen tối, tin tưởng ngay khi tạm thời thất bại. Lạc quan, tin tưởng vì biết dựa vào dân, vì biết phát duy sức mạnh của dân, đặc biệt là tầng lớp manh lệ:

Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập

Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

Trong bản tuyên ngôn lịch sử này chúng ta lại tìm thấy lời tuyên ngôn về vai trò và sức mạnh của người dân - những người manh lệ. Đó là một tư tưởng lớn. Mãi sau này phải đến Nguyễn Đình Chiểu chúng ta mới lại thấy xuất hiện những người dân ấp, dân lân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong một bản tuyên ngôn trọng đại như Bình Ngô đại cáo, những người manh lệ được nói đến một cách công khai, trịnh trọng như vậy cũng là chưa thấy xưa nay.

Cảm hứng về lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là cảm hứng mang đậm sắc thái chữ tình, sắc thái chữ tình ấy rất phù hợp với bút phát khắc hoạ hình tượng tâm trạng: Sắc thái chữ tình đã tạo nên trong đoạn văn csó nội dung hồi tưởng những âm hưởng vừa hào hùng, vừa bi thiết.

Từ giai đoạn đầu khó khăn sang giai đoạn hai phản công thắng lợi là hai câu thơ có ý nghĩa như chiếc bản lề chuyển tiếp:

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Một lần nữa Nguyễn Trãi nhắc lại nguyên lí nhân nghĩa đã nêu ở câu mở đầu bài Cáo. Điều cần nói là bản dịch chưa lột tả thật đầy đủ nguyên tác. Nguyên văn: Dĩ đại nhi thắng hung tàn, dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo. Dịch: thay cường bạo người ta dễ hiểu là đem chí nhân để thay thế cường bạo. Dịch không nên hiểu là thay thế cho mà có nghĩa là thay đổi đi. Vì vậy bảy chữ đó nên hiểu là: Lấy chí nhân (của ta) mà làm thay đổi đi sự cường bạo (của địch), tức làm cho kẻ địch không còn cường bạo nữa. Hiểu như thế, chúng ta càng thấy sâu sắc hơn chủ nghĩa nhân đạo vì sự phát triển con người của nhân dân Đại Việt của tác giả Bình Ngô đại cáo.

Sáu năm gian khổ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

Sau khi nhắc lại nguyên lí nhân nghĩa là cả một đoạn văn dài khắc hoạ quá trình phản công thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Có thể nói sau bao suy tư, chiêm nghiệm, sau bao đớn đau, căm giận, sau bao lo lắng quyết tâm, đến lúc này tâm trạng tác giả mới thực sự hả hê, sảng khoái: Cảm hứng anh hùng ca rần rật bốc cao trong đoạn văn miêu tả chiến thắng thần tốc của nhân dân Đại Việt. Từ hình tượng đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm thanh nhịp điệu: tất cả đều mang bút pháp anh hùng ca. Bao trùm đoạn văn là những hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự lớn rộng, kì vĩ của thiên nhiên: chiến thắng của ta: sấm vang chớp giật, trúc trẻ tro bay, sạch không kình ngạc, tan tác chim muông, trút sạch lá khô, sụt toang đê vỡ. Sức mạnh của ta: đá núi phải mòn, nước sông phải cạn. Thất bại của địch: máu chảy thành sông, máu trôi đỏ nước, thây chất đầy nội, thây chất đầy đường. Khung cảnh chiến trường: sắc phong vân phải đổi, ảnh nhật nguyệt phải mờ. về mặt ngôn ngữ, trong nguyên văn cũng như trong bản dịch, các động từ mạnh liên kết với nhau thành những chuyển rung dồn dập, dữ dội. Các tính từ chỉ mức độ ở điểm tối đa tạo thành hai mảng trắng, đen đối lập thể hiện cái thế, cái đà chiến thắng của ta và cái thế, cái đà thất bại của địch. Câu văn khi dài khi ngắn, biến hoá linh hoạt trên cái nền chung là nhạc điệu dồn dập, sảng khoái, bay bổng. Âm thanh ròn rã, hào hùng, như sóng trào, bão cuốn. Ta hãy đọc một đoạn văn, không cần đọc hết cả câu, chỉ đọc những đoạn mở đầu với liên tiếp những cụm từ chỉ thời gian:

Ngày mười tám..................

Ngày hai mươi....................

Ngày hăm lăm....................

Ngày hăm tám....................

Đó thật sự là nhịp của triều dâng, sóng dậy, hết lớp này đến lớp khác. Nhịp mạnh, dồn dập là xương sống của đoạn văn:

Gươm mài đá /đá núi phải mòn

Voi uống nước/ nước sông phải cạn

Đánh một trận / sạch không kình ngạc

Đánh hai trận/ tan tác chim muông.

Đó thật sự là nhịp của gió lay, bão giật.

Sự hoà quyện giữa hình tượng, âm thanh, nhạc điệu của những đoạn văn như trên đã tạo nên một bút pháp anh hùng ca có tác dụng miêu tả một cách chân thật quá trình tổng phản công thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Xen giữa bản anh hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là hình ảnh kẻ thù xâm lược:

Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía

Lí An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân ...

Đô đốc Thôi Tự lê gối dâng tờ tạ tội

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh nhưng đều giống nhau ở một điểm: tham sống sợ chết đến hèn nhát. Hèn nhát đến mức:

Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phảch lạc.

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập, chân run.

Mỗi tên một vẻ, mỗi đứa một cảnh, có bao nhiêu thái độ, tâm trạng thì Nguyễn Trãi có bấy nhiêu từ ngừ để biểu hiện. Quả tình ở đây, cây bút của Nguyễn Trãi cũng vẫn là cây bút thần.

Hình tượng kẻ thù thảm hại, nhục nhã càng tôn thêm khí thế hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đồng thời qua hình tượng kẻ thù hèn nhát và được tha tội chết, được tạo điều kiện để sống (đúng là dĩ chí nhân dịch cường bạo), Nguyền Trãi càng làm nổi bật tính chất chính nghĩa, nhân đạo sáng ngời của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Viết bình luận