Phân tích truyện “An Dương Vương và Mỵ Châu - Trọng Thuỷ”

Truyền thuyết là lịch sử truyền miệng của nhân dân. Nếu như chức năng của thần thoại là nhận thức và lí giải các hiện tượng tự nhiên thì chức năng của truyền thuyết chủ yếu là nhận thức và lí giải lịch sử. Do đó truyền thuyết chủ yếu hướng vào để tài lịch sử, nhằm phản ánh, lí giải các sự kiện lịch sử trọng đại, các nhân vật lịch sử có vai trò và ảnh hưởng lớn đối với sự tồn tại, phát triển của cộng đồng. Nội dung chủ yếu của truyền thuyết thường chia làm hai phần. Phần cốt lõi của những sự kiện, nhân vật lịch sử được phản ánh và phần tâm tình ý nguyện của nhân dân được gửi gấm vào trong đó và một trong những truyền thuyết tiêu biểu viết theo mô típ đó là truyền thuyết thần Kim Quy (truyện An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thuỷ).

Đây là một truyền thuyết lớn, một tấm bi kịch lịch sử, phản ánh được những nét cơ bản của lịch sử dân tộc thời kỳ Âu Lạc (thế kỷ thứ ba và thứ hai trước Công Nguyên). Nó đã được đông đảo quần chúng nhân dân lưu truyền, hâm mộ và thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu sử học, văn học, nhiều nhà thơ như Cao Bá Quát, Tản Đà, Xuân Diệu, Tố Hữu... đã làm thơ về truyện này nhất là về nhân vật Mị Châu:

Một đôi kẻ Việt, người Tầu

Nửa phần ân ái, nửa phần oán thương

Vuốt rùa chàng đổi móng

Lông ngỗng thiếp đưa đường

Thề nguyền phu phụ

Tình nhi nữ việc quân vương

Niệm gấm vô cảm

Trăm năm giọt lệ

Ngọc trai nước giếng

Ngàn thu khói nhang.

(Tản Đà)

Tôi kể người nghe chuyện Mị Châu

Trái tim lầm chỗ để trên đầu

Nỏ thẩn vô ý trao tay giặc

Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu.

(Tố Hữu)

Chiếc nỏ thần kỳ của An Dương Vương

Phản ánh lí giải sự thảm bại của An Dương Vương đó là nội dung của truyền thuyết này: Truyền thuyết gồm hai phần chính (có khi được kể làm hai chuyện)

Phần 1: Nói về việc An Dương Vương xây thành, chế nỏ và đánh thắng quân xâm lược Tản Đà lần thứ nhất, khiến Triệu Đà phải rút lui.

Phần 2: Nói về việc An Dương Vương mắc mưu Triệu Đà nhận lời cầu hoà, cầu hôn cho Trọng Thuỷ ở rể, mất cắp nỏ thần và cuối cùng thất bại nước mất, nhà tan.

Ở phần thứ nhất truyền thuyết tập trung nói về việc An Dương Vương xây thành, chế nỏ. Nỏ thần ở đây là một loại vũ khí đánh xa chưa có ở thời kỳ Thánh Gióng. Việc xây loa thành cũng là một bước phát triển mới của thời kỳ Âu Lạc so với thời kỳ Văn Lang. Thần Kim Quy ở đây là lực lượng siêu nhiên xuất hiện để giúp đỡ An Dương Vương xây thành, chế nỏ chính là sự thần thánh hoá một nhân vật lịch sử có thật ở.thời kỳ Âu Lạc đó là Cao Lỗ, người có tài chế nỏ liên châu. Việc xây dựng thành cổ Loa gặp nhiều khó khăn, trở ngại rất nhiều trong thời kỳ đầu, những khó khăn ấy nó phản ánh khó khăn trở ngại có thực. Nếu ở Thánh Gióng tập trung phản ánh thể hiện là người chiến sĩ trực tiếp đánh giặc ở chiến trường. Thánh Gióng chính là sự khái quát hoá, hình tượng hoá đội quân xâm lược đầu tiên của quân đội ta thời kỳ Văn Lang, đội quân lý chí sử dụng vũ khí là chiếc roi sắt và nhổ từng bụi tre để đập tan quân thù thì đến truyện An Dương Vương tập trung phản ánh và thể hiện vai trò quan trọng và những phẩm chất cần thiết của người chỉ huy lãnh đạo cộng đồng dựng nước và giữ nước.

Mưu trí và sự tỉnh táo là điều kiện không thể thiếu đối với người chỉ huy. Ở thời kỳ đầu An Dương Vương được thần Kim Quy giúp đỡ, đã có đủ điều kiện để xây dựng được thành và đánh thắng quân xâm lược Triệu Đà. Nhưng sau khi dành được thắng lợi An Dương Vương đã chủ quan ỷ lại vào thành trì, vũ khí, ham mê chơi bời (đánh cờ) nên đã thất bại đau đớn. Như vậy, ở đây Thần Kim Quy là vị thần mưu trí của An Dương Vương khi được giúp đỡ thì An Dương Vương tỉnh táo nhưng khi thần ra đi thì An Dương Vương lại mất hết sáng suốt trở nên u mê điều này chứng tỏ con người còn dựa nhiều vào lực lượng siêu nhiên, phải có sự giúp đỡ của lực lượng thần kỳ thì người anh hùng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Điều này chứng tỏ vai trò rất lớn của lực lượng siêu nhiên trong thể loại này.

Biết An Dương Vương có thành cổ loa kiên cố và có chiếc nỏ thần kỳ. Triệu Đà đã lập mưu Kầu hoà và cho con trai Trọng Thuỷ sang cầu hôn nàng Mị Châu, An Dương Vương đã nhận lời đây là một sai lầm hết sức to lớn nó chứng tỏ sự mất cảnh giác của An Dương Vương và lòng tin vào kẻ thù của mình. Từ việc sai lầm của cha dẫn đến sự sai lầm của Mị Châu. Lần thứ nhất nàng đưa Trọng Thuỷ vào nơi để nỏ thần để y biết được bí mật và đánh tráo nó. Lần thứ hai sau khi cho Trọng Thuỷ xem nỏ thần, y đòi về thăm cha Mị Châu đã ngây thơ tin theo lời chàng và không một chút nghi ngờ khi Trọng Thuỷ nói: Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở lại thăm cha đến lúc hai nước bất hoà, nam bắc cách biệt ta muốn tìm nàng lấy gì làm dấu. Đó là một lời nói có rất nhiều... đáng ngờ. Nhưng Mị Châu vì quá yêu chàng nên không lường trước được mà tin một cách mê muội thể hiện nàng nói: Thiếp phận nữ nhi, nên gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn xiết. Thiếp có chiếc áo lông ngỗng thường mặc trên mình. Đến ngã ba đường thiếp bứt lông làm dấu, chàng cứ theo vết lông ngỗng đến ta sẽ cứu được nhau. Một lòng tin không hề nghi ngờ Mị Châu không nghĩ rằng người chồng của mình sẽ phản bội lại mình. Và khi quân Triệu Đà đưa binh sang đánh cha con An Dương Vương vẫn còn nằm trong giấc mộng tin tưởng đó là cha thì say cò còn con thì say chồng. Khi nghe quân cấp báo giặc đến gần An Dương Vương vừa bình thản ngồi đánh cờ còn nói rằng: Quân Đà không sợ nỏ thần sao chi tiết này nói lên sự chủ quan khinh địch của An Dương Vương, ông chỉ biết dựa vào nỏ thần nên đánh mất cảnh giác chính sự mất cảnh giác đã dẫn đến cảnh nước mất nhà tan và bi đát thay trên đường cha con chạy chốn thì Mị Châu lại chính là người chỉ đường cho Trọng Thuỷ đi theo. Sự tin tưởng một cách mù quáng vào tình yêu vợ chồng ngay lúc này Mị Châu vẫn chưa thức tỉnh được cơn say vẫn sống trong mê muội. Đến khi hai cha con đứng bên bờ biển không còn lối thoát An Dương Vương đã hét lên: Trời hại ta! Sứ Thanh Giang mau mau cứu ta, nó phần ánh sự bế tắc về đường đi và bế tắc trong nhận thức tư tưởng của hai cha con. Đến giờ phút này An Dương Vương vẫn nghĩ là trời hại ta nhưng điều không thể ngờ tới kẻ thủ hại ta không ai xa lạ chính là đứa con gái của mình. Thần Kim Quy hét lớn: Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó. Tiếng hét của Thần Kim Quy giống như tiếng sét đánh ngang tai nhà vua, thật là không thể ngờ đến và trong lúc tỉnh lại nhưng đã quá muộn không còn con đường nào khác là phải giết ngay kẻ thù của mình. Việc cha giết con ở đây không phải vì An Dương Vương không thương Mị Châu nhưng vì đất nước, vì cộng đồng mà An Dương Vương phải dứt tình máu mủ hi sinh quyền lợi của mình để bù đắp một phần nào lỗi lầm gây ra.

Sự mất cảnh giác của An Dương Vương và lòng tin vào kẻ thù của mình

Tiếng thét lớn của Thần Kim Quy nói lên sự phẫn nộ của đất nước Âu Lạc đối với sai lầm của hai cha con. Câu nói Kẻ ngồi sau lưng chính là giặc đó rất đúng và tại sao Thần Kim Quy không nói Mị Châu là giặc? Câu nói đó cũng có nguyên nhân của nó vì Mị Châu chỉ là giặc một cách vô ý thức trong trường hợp ấy Mị Châu không hề chú ý mà đó chỉ là lòng tin bị đánh cắp và nàng cũng chấp nhận cái chết vì sự sai lầm của mình. Nàng sẵn sàng chết để chứng minh cho cha nàng thấy nàng không hề phản bội lại tổ quốc và nàng xin trước khi chết là được hoá thành châu ngọc để lau sạch mối nhục thù và tơ dạ trong trắng với cha, với tổ quốc. Trước khi chết nàng vẫn mãn nguyện không hề van xin về tội lỗi của mình. So với diễn biến tâm trạng và tình cảm của Mị Châu về phía Trọng Thuỷ hoàn toàn khác ban đầu. Chàng cầu hôn với Mị Nương không phải vì tình yêu mà vì mục đích chính trị, nhằm thực hiện âm mưu của cha mình đã sắp đặt sẵn nhưng về sau chàng đã thực sự yêu nàng say đắm, nhưng vì đất nước mà chàng phải dối lòng mình. Khi chàng theo dấu vết lông ngỗng chạy ra biển cũng là lúc Mị Nương đã bị vua cha chém đầu, chàng ôm nàng vào lòng bế nàng về táng ở loa thành. Từ đó Trọng Thuỷ như ngây dại và lao đầu xuống giếng mà chết. Máu của Mị Châu chảy xuống biển trai sò ăn vào thành ngọc trai. Như vậy chứng tỏ Trọng Thuỷ rất yêu Mị Châu nên chàng mới tự tử xuống giếng và cái chết của Trọng Thuỷ thật bi thảm. Đó là cái chết của một kẻ xâm lược đầy ảo vọng và si tình.

Ở đây câu chuyện kết thúc trong bi kịch đó là bi kịch về sự mất cảnh giác và mất nước đồng thời còn là bi kịch về nhân dân và tình yêu giữa Mị Châu và Trọng Thuỷ. Đồng thời ở mỗi nhân vật cũng có sự diễn biến, phát triển ít nhiều mang tính bi kịch. Sự phong phú hàm súc về nội dung, cùng với sự chặt chẽ trong kết cấu, độc đáo trong cách thể hiện đã làm cho truyền thuyết này có một sức sống hấp dẫn đặc biệt mà ít truyện dân gian nào có thể sánh được. Và đó cũng là nguyên nhân khiến cho truyện này được nhiều nhà thơ, nghệ sĩ thuộc các ngành nghệ thuật đã khai thác, chuyển thể, sử dụng.

Viết bình luận