So sánh các bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, (...) trích đoạn Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Phân tích và đánh giá những tình cảm riêng, những khám phá riêng của mỗi nhà thơ về vẻ đẹp của đất nước quê hương mình

Đề bài: So sánh các bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước cùa Nguyễn Đình Thi. Việt Bắc của Tố Hữu, Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, trích đoạn Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Phân tích và đánh giá những tình cảm riêng, những khám phá riêng của mỗi nhà thơ về vẻ đẹp của đất nước quê hương mình

Bài làm:

Chủ nghĩa yêu nước là một truyền thống tư tưởng lớn nhất, sâu sắc nhất của văn học nước ta trải qua hàng nghìn năm lịch sử. Mỗi khi đất nước có họa xâm lăng, truyền thống ấy lại càng được phát huy mạnh mẽ.

Ta hiểu vì sao, trong 30 năm chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ Chủ nghĩa yêu nước đã là chủ đề nổi trội nhất của văn học Việt Nam... Chủ nghĩa yêu nước trong văn học có một nội dung hết sức phong phú và những hình thái biểu hiện vô cùng đa dạng, tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử khác nhau, và tuỳ theo những môi quan hệ khác nhau của mỗi cây bút đối với đất nước, với nhân dân mình, đối với truyền thống lịch sử, truyền thống văn hoá của dân tộc mình.

Một trong những biểu hiện cảm động của lòng yêu nước trong văn học là phát hiện và diễn tả vẻ đẹp của quê hương đất nước.

Nói đến hình ảnh đất nước trong thơ ca kháng chiến, trước hết phài kể đến bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm.

Truyền thống văn hoá của dân tộc

1. Trong bài Tây Tiến, với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng bắt ngay lấy những cảnh dữ dội và hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc.

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm,

Heo hút cồn mây súng ngửi trời;

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống.

Nhà ai pha luông mưa xa khơi...

Nhưng, với cảm hứng lãng mạn, nhà thơ cũng rất nhạy cảm với vẻ đẹp có tính chất xứ lạ phương xa của những cô Xoè Thái và hình ảnh giàu chất thơ của những dòng sông Tây Bắc rất đỗi trữ tình đổ xuôi giữa hai bờ hoa cỏ:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa...

2. Đất nước trong thơ Hoàng Cầm Bên kia sông Đuống lại gần với một vùng văn hoá Kinh Bắc cổ kính, ở đây mỗi thôn xóm mỗi quả đồi, ngọn núi đều có dấu tích một truyền thuyết lịch sử, gắn với một mái đình, một ngôi chùa, một ngọn tháp.. Đây cũng là quê lương của tranh làng Hồ, của hát Quan họ của những hội làng nô nức vào những dịp đầu xuân... Chỉ cần nhắc đến những địa danh nào đó là mỗi người Việt Nam tưởng như động đến những gì thân thiết nhất và đáng tự hào nhất về quê hương đất nước mình:

Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đinh đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút tháp

Giữa huyện Long Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu...

Trên vùng đất cổ kính ấy, thường thấy thấp thoáng hình ảnh nhừng cô gái Kinh Bắc thật tươi tắn và dịu dàng, "cười như mùa thu toả nắng".

Nhưng giặc đến. Tất cả đều tan tác. Bài thơ là một mạch tình cảm dạt dào đầy xót xa, đau đớn và căm giận…

 3. Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi lại có màu sắc khác, ấy là Đất nước được nhìn ngắm qua con mắt cùa một người vừa giành được quyền làm chủ. Vì thế những cảnh vật dù rất đỗi bình thường quen thuộc cũng trở nên mới mẻ, đằm thắm, rộn ràng và rộng dài bát ngát:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa...

Nhưng thiên hướng của Nguyễn Đình Thi là thế: hình ảnh đất nước dưới ngòi bút của ông thường hiện ra cảm động nhất là trong dau thương, bất hạnh. Vì thế, cảnh dù giàu chất thơ vẫn pha vị ngậm ngùi:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lả rơi đầy....

(...) Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Qua thơ Nguyễn Đinh Thi, dường như chỉ trong đau thương, đất nước mới thế hiện đậm nét vẻ đẹp và phẩm chất anh hùng:

Nước Việt Nam từ máu lừa

Rũ bùn dứng dậy sáng loà.

4. Có lẽ đẹp hơn cả là hình ảnh đất nước trong thơ Tố Hữu. Có thế nói bài Việt Bắc là mội bức tranh đầy màu sắc và chất thơ về rừng núi chiến khu. quê hương cách mạng. Với Tố Hữu, cảnh bao giờ cũng gắn với người và lung linh một thứ ánh sáng riêng rất đỗi trong trẻo dịu dàng - ánh sáng của lý tưởng và của một hồn thơ giàu tình mến thương:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Rừng thu trăng rọi hoà bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung...

Đó là cành và người qua nỗi nhớ của Tố Hữu. Nhớ nhất  là những ngày gian nan vất vả, cùng nhân dân chia ngọt xẻ bùi:

Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

Ta đi ta nhớ những ngày

Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi...

Vẻ đẹp của đất nước quê hương mình

5. Nói đến nhừng bài thơ đặc sắc nhất ra đời vào khoảng 1960, phải kể đến bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên. Tác phẩm giầu tính tượng trưng, ông sáng tạo nên hình ành Tây Bắc như là biểu tượng của Đất nước, của nhân dân, của truyền thống kháng chiến, của sự sống, của nguồn thơ:

Nhựa nóng mười năm, nhân dân máu đổ

Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ...

Tác giả đã sáng tạo nên nhiều hình ảnh rất cảm động về Đất nước quê hương, khi ý nghĩa biểu tượng, tư tưởng triết lý gắn được với những kỉ niệm cụ thể và thắm thiết về cành và người mà ông đã từng gắn bó trong những năm kháng chiến gian khổ:

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ

Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?

Khi ta ở. Chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn!

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét

Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng,

Như xuân đến chim rừng lông trở biếc

Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương...

6. Một trong những nét mới của quan niệm về đất nước trong văn học nước ta từ sau Cách mạng tháng Tám là quan niệm đất nước là cùa nhân dân, nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, mở mang đất nước và bào vệ đất nước. Quan niệm này đã thể hiện một cách khá thống nhất trong các bài thơ đã phân tích trên đây (Tây Tiến, Bên kia sống Đuống, Đất nước, Việt Bắc và Tiếng hát con tàu). Quan niệm ấy càng được phát huy mạnh mẽ hơn bao giờ trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1965 - 1975).

Đó chính là chủ đề của trích đoạn Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Đỉềm.

Đoạn thơ dùng phương thức trữ tình - chính luận, phát biểu một định nghĩa về khái niệm đất nước theo quan niệm nói trên.

Trước hết đất nước là một cái gì tuy thật lớn lao - là "Thời gian đằng đằng, không gian mênh mông" - nhưng không hề trừu tượng và xa lạ. Nó là miếng trẩu bà ăn, là cái kèo cái cột trong nhà, là hạt gạo một nắng hai sương, là nơi anh đến trường, là nơi em tắm v.v... Nghĩa là hết sức gần gũi, thậm chí là máu thịt của mỗi chúng ta:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất nước

Đất nước, ấy là công trình sáng tạo của nhân dân. Nhân dân mỡ màng, xây đắp đến đâu thì đặt tên đến đấy. Mỗi tên gọi là một ước mơ, một nỗi niềm trăn trở, một lối sống, một niềm tin:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gỏt ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương...

Tóm lại Đất nước chính là những cuộc đời - "Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Đất nước, ấy là lịch sử. Lịch sử dựng xây và bảo vệ. Có được Đất nước hôm nay, biết bao lớp người đã phải đổ mồ hôi và máu. Để truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng, hòn than nhóm lửa, truyền lại cho ta tiếng nói và văn chương - những ca dao, thần thoại... Và khi:

Cỏ ngoại xâm thi chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất nước này là Đất nước nhân dân.

Tóm lại, trích đoạn Đất nước là một định nghĩa bằng thơ. Nó phài dùng nhiều yếu tố của văn chính luận, nhưng không đến nỗi khô khan. Vì tác giả đã khéo khai thác kho tàng phong phú của văn hoá dân gian để tạo nên một thế giới hỉnh tượng vừa quen thuộc vừa mới mẻ, giàu ý nghỉa tượng trưng khái quát mà vẫn cò thể lay động lòng người.

Đổi với dân tộc Việt Nam, lòng yêu nước có thể coi là cái huyệt thần kinh nhạy cảm nhất. Giặc Pháp rồi giặc Mỹ đã đập mạnh vào cái huyệt thần kính đó. Chúng đã phải trả giá bằng thất bại nhục nhã trước sức mạnh của lòng yêu nước đó. Đấy là cơ sở tư tưởng cùa dòng thơ yêu nước dồi dào phong phú tuôn chảy suốt 30 năm của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc. Mỗi bài thơ là một phát hiện về đất nước đẹp và hùng trong chiến đấu và chiến thắng.

Viết bình luận