Những đứa trẻ (Trích "Thời thơ ấu")
Go-rơ-ki (1868-1936) là văn hào Nga vĩ đại. Tuổi thơ đầy bất hạnh, nãm lên 10 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Thời thơ ấu phải làm nhiều nghề để kiếm sông: đi ở, làm đầu bếp, phụ việc trong xưởng, làm tượng Thánh,...
Go-rơ-ki (1868-1936) là văn hào Nga vĩ đại. Tuổi thơ đầy bất hạnh, nãm lên 10 tuổi mồ côi cả cha lẫn mẹ. Thời thơ ấu phải làm nhiều nghề để kiếm sông: đi ở, làm đầu bếp, phụ việc trong xưởng, làm tượng Thánh,...
Tên thật là Chu Thụ Nhân, tên chữ là Dự Tài, bút danh là Lỗ Tấn. Ông sinh năm 1881 và mất năm 1936. Quê ở Chiết Giang, sinh trưởng trong một gia đình quan lại đã thất thế. Thuở nhỏ học rất giỏi, được tuyển chọn sang Nhật học đại học.
Nguyễn Quang Sáng còn có bút danh là Nguyễn Sáng sinh năm 1932, quê ở Chợ Mới, tỉnh An Giang. Là bộ đội thời đánh Pháp, sau năm 1954 tập kết ra miền Bắc mới bắt đầu viết văn. Trong những nãm đánh Mĩ, ông sống và họat động tại chiến trường Nam Bộ.
Nguyễn Thành Long (1925 - 1991) quê ở Duy Xuyên, Quảng Nam, viết văn từ thời kì kháng chiến chông Pháp. Sở trường của ông là truyện ngắn với lôi viết nhẹ nhàng gợi cảm đầy chất thơ. Tác phẩm của ông gồm có các tập truyện: “Giữa trong xanh”, “Li Sơn mùa tỏi”, “Sáng mai nào, xế chiều nào”, v.v...
Kim Lân sinh năm 1920, tên là Nguyễn Văn Tài, quê ở Từ Sơn, Bắc Ninh. Ông vốn là thợ thủ công của làng nghề vùng Kinh Bắc. Với một vốn sống phong phú và từng trải về nông thôn Việt Nam, ông viết thành công đề tài về nông dân.
Nguyễn Duy là bút danh, họ tên là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở thành phô' Thanh Hóa. Ông gia nhập quân đội từ năm 1966, đi suốt hành trình chiến đâu và chiến thắng kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của quân và dân ta.
Bằng Việt là bút danh của Nguyễn Việt Bằng sinh năm 1941, quê ở Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, nay thuộc thành phố Hà Nội. Bằng Việt thuộc thế hệ thi sĩ trưởng thành trong những năm kháng chiến chống Mĩ. Tác giả viết bài thơ “Bếp lửa" vào năm 1963, khi đang học Đại học ở Liên Xô.
Huy Cận là bút danh, họ tên là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 tại huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất hiện trong phong trào “Thơ mới” trước năm 1945 với tập thơ “Lửa thiêng” giàu chất triết lí và thấm thìa bao nỗi buồn.
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Là nhà thơ Quân đội, trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. “Lửa đèn”, “Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây”, “Gửi em - cô thanh niên xung phong”,
Ông là nhà thơ chiến sĩ trong suốt những năm dài khói lửa chống Pháp và chống Mĩ xâm lược. Chính Hữu làm thơ không nhiều và hầu như chỉ viết về người lính và chiến tranh. Thơ ông bình dị, cảm xúc dồn nén, vừa thiết tha vừa trầm hùng: