Phân tích Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chi Minh

Đất nước ta sống trong một hoàn cảnh có không gian địa lý đặc biệt: lưng tựa vào Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông bốn mùa sóng vỗ. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với đủ loại ngoại xâm: từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, từ Đông vào cho nên cùng với những chiến công hiển hách như phá Tống, bình Nguyên, diệt Minh, đuổi Thanh. Chính vì thế mà nền văn học chúng ta cũng đã có những áng văn kiệt tác khẳng định đanh thép chủ quyền độc lập của dân tộc. Bên cạnh bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt sang sảng ngâm trên sông Như Nguyệt, Bình Ngô đại cáo, một thiên cổ hùng văn của Nguyễn Trãi, ngày nay chúng ta có Tuyên ngôn Độc lập, một áng văn chính luận mẫu mực, nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc, khí phách của non sông.

Tuy chúng ta đã đánh đổ chế độ quân chủ hàng chục thế kỷ, lật nhào được ách áp bức thực dân hàng thế kỷ, Hà Nội đã rực bay cờ đỏ sao vàng... Nhưng Lai Châu vẫn nằm trong tay tàn quân Pháp. Hà Giang, Lào Cai, Móng Cái nằm trong tay bọn Tàu tràn vào đó từ tháng 8. Ở Vĩnh Yên, bọn quốc dân Đảng chiếm đóng tỉnh lị và nhiều nơi với sự giúp sức của quân đội Nhật. Hoa quân nhập Việt sắp kéo vào tước vũ khí của quân đội Nhật, để lấy cớ chiếm luôn Việt Nam này. ở miền Nam, thì quân đội Anh. Còn tướng Đờ gôn, người giải phóng nước Pháp lại tuyên bố trước sự hoan hô của đám đông đang hăng say vì chiến thắng: Chúng ta sẽ trở lại Đông Dương vì chúng ta mạnh hơn, Hà Nội, chặng đường giải phóng cuối cùng. Bác ở giữa Hà Nội, trong căn nhà 48 Hàng Ngang ấy, phải viết Tuyên ngôn như thế.

Đất nước ta

Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử được Bác viết ra cho đồng bào cả nước và nhân dân thế giới: Hỡi đồng bào cả nước... chúng tôi trịnh trọng tuyên bố với thế giới. Vì viết cho đồng bào nên lời văn bản tuyên ngôn xiết bao xúc động. Vì tuyên bố với thế giới nên giọng văn của bản tuyên ngôn sắc bén, lý lẽ đanh thép. Để tái hiện lại giờ phút thiêng liêng khi Bác đọc bản Tuyên ngôn tại Quảng trường Ba Đình lịch sử 2/9/1945, trong bản trường ca Theo chân Bác, Tố Hữu đã viết nên mấy câu thơ thật chân thực và xúc động:

Hôm nay sáng mồng hai tháng chín

Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình

Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín

Bỗng vang lên tiếng hát ân tình

Hồ Chí Minh! Hồ Chí Minh!

Người đọc Tuyên ngôn... rồi chợt hỏi:

"Đồng bào nghe Tôi nói rõ không?"

Ôi câu hỏi, hơn mọi lời kêu gọi

Rất đơn sơ mà ấm bao lòng!

Cả muôn triệu một lời đáp: "Có!"

Như Trường Sơn say gió biển Đông

Vâng Bác nói, chúng con nghe rõ

Mỗi tiếng Người mang nặng núi sông '

Và Người viết nhằm mục đích tuyên bố quyền độc lập của dân tộc ta và nhằm ngăn chặn âm mưu của Anh, Mỹ, đặc biệt là Pháp nhân danh bảo hộ, khai hoá, đồng minh, hòng cướp lại nước ta một lần nữa.

Trước hết, để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ta là đúng nguyên lý, phù hợp với Công pháp Quốc tế, Bác đã trích hai câu nói nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của Pháp 1791: Tất cả mọi người sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không gì có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.... Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung suớng và quyền tự do.

Ý kiến suy rộng ra ấy là một đóng góp vô cùng quan trọng của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới... Một nhà văn hoá nổi tiếng của thế giới đã viết Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết lấy vận mệnh của mình. Ý kiến suy rộng ra của Bác có thể được xem là tiếng chuông khởi đầu cho thời kỳ bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào những 60, 70 của thế kỷ XX.

Như thế là Bác đã dùng những lý lẽ của chính tổ tiên người Mỹ, người Pháp đã ghi trong những bản tuyên ngôn được cả thế giới công nhận và từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn hoá của những dân tộc đó. Cách viết như thế là vừa khéo léo, vừa kiên quyết. Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp,

người Mỹ. Kiên quyết vì như ngầm cảnh cáo, nếu họ tiến quân xâm lược Việt Nam, thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên mình, làm vấy bẩn lên lá cờ nhân đạo thiêng liêng của những cuộc cách mạng vĩ đại của họ mà đã được cả thế giới ngưỡng vọng, ở đây, Bác đã đã vận dụng thủ pháp nghệ thuật rất hiệu quả trong việc đánh địch là dùng gậy ông để đập lưng ông. Nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng Những câu Tuyên ngôn trích trên kia vừa là quả táo đối với chúng ta, vừa là quả lựu đạn đối với kẻ thù: Khạc chẳng ra nuốt chẳng vào đối với bọn chúng.

Áng văn kiệt tác

Vả lại cách viết như vậy, phải chăng Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang nhau, đặt ba cuộc cách mạng ngang nhau? Điều đó làm cho ta gợi lại niềm tự hào của tác giả bài Bình Ngô đại cáo nổi tiếng, khi mở đầu tác phẩm bằng hai vế cân xứng như để đặt ngang hàng Triệu, Đinh, Lí, Trần của nước Nam với Hán, Đường, Tống, Nguyên của Trung Quốc. Bác Hồ đặt cân xứng bản Tuyên ngồn của ta với bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp cũng phải thôi vì cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 hầu như đã giải quyết đúng những nhiệm vụ hai cuộc Cách mạng của Mỹ (1776) và của Pháp (1789). Bản Tuyên ngôn của Bác đã nêu rõ: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gày dựng nên nước Việt Nam độc lập. Đó cũng là yêu cầu đặt ra cho cuộc cách mạng nước Mỹ đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa Bắc Mỹ ra khỏi ách thực dân Anh. Bản Tuyên ngôn Độc lập cũng viết: Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà. Đây cũng là tinh thần cơ bản của cuộc cách mạng nhân quyền, dân quyền của Pháp thế kỷ XVIII.

Tiếp đó, để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân loại tiến bộ, để đẩy lùi kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất đe dọa nền độc lập của dân tộc ta là thực dân xâm lược Pháp, Bác đã nêu lên hàng loạt lý lẽ và lập luận đầy sức thuyết phục về mặt pháp lý nhằm bác bỏ luận điệu của bọn Đế quốc thực dân.

Để vạch trần luận điệu về công lao khai hoá của nước Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ những hành động trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: chính trị và kinh tế. Chúng thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ; chia rẽ Tổ quốc ta thành 3 kỳ:

Giặc cướp hết non cao biển rộng

Cướp cả tên nòi giống tổ tiên

Lưỡi gươm cắt đất, ngăn niềm

Núi sông một khúc ruột liền chia ba

(Tố Hữu)

Tắm các phong trào yêu nước và cách mạng của ta trong những bể máu; thi hành chính sách ngu dân; đầu độc dân ta bằng thuốc phiện, rượu cồn; bóc lột vơ vét đến tận xương tủy làm cho nước ta xơ xác, dân ta tiêu điều, cuối cùng chúng đã gây ra nạn đói khủng khiếp khiến cho từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Như vậy là khai hoả đó sao? Sự thực là các ngài đã khai tử cả một dân tộc chúng tôi. Để phơi bày luận điệu xảo trá về công lao bảo hộ Đông Dương của Pháp, bản Tuyên ngôn cũng đã chỉ rõ: đó không phải là công mà là tội. Vì chúng chẳng những không bảo hộ mà trong năm năm chúng đã bán đứng nước ta hai lần cho Nhật.

Và cuối cùng để bác bỏ lời tuyên bố rằng Đông Dương là thuộc địa của chúng, với tư cách là một thành viên của Đồng minh, bản Tuyên ngôn đã chỉ rõ: đó là tội. Pháp đã quỳ gối đầu hàng Nhật, kẻ thù của Đồng minh, dâng Đông Dương cho Nhật làm một căn cứ đánh Đồng minh. Pháp không còn tư cách gì là Đồng minh để trở lại đây nữa. Và dân ta đã giành độc lập từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp, giành bằng sự nổi dậy của chính mình, giành trước khi Đồng minh bén mảng đến đây. Luận điểm này đứng về ý nghĩa pháp lý là vô cùng quan trọng. Nó sẽ dẫn đến lời tuyên bố hùng hồn tiếp theo của Bản Tuyên ngôn: Bởi thế, cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, Xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Việt Nam đã độc lập, đó là thực tế. Việt Nam phải được độc lập đó là theo các nguyên tắc của Hội nghị Cựu Kim Sơn của các nước Đồng minh Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và thực tế đã trở thành một nước tự do độc lập chính là nhấn mạnh hai phía sự và lý ấy, Đồng minh khó bẻ một lý nào.

Còn dân tộc ta thì sao? Dân tộc ta có xứng đáng được hưởng Độc lập tự do hay không? Có đủ tư cách làm chủ đất nước mình hay không? Bản tuyên ngôn cũng đã đưa ra những lý lẽ đầy tính chất khẳng định.

Nếu thưc dân Pháp có tội phản bội Đồng minh - dâng Đông Dương cho Nhật, thì nhân dân ta đã anh dũng chống Nhật với tư cách là một thành viên của Đồng minh.

Nếu thực dân Pháp bộc lộ tính chất hèn nhát, phản động, phi nhân đạo ở hành động thẳng tay khủng bố Việt Minh. Thậm chí đến khi thua chạy, còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo ngay đối với kẻ thù, khi chúng đã thất thế: Sau cuộc biến động 9/3 Việt Minh đã giúp cho người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người. Pháp ra khỏi trại giam Nhật và bảo vệ tính mạng tài sản cho họ. Một dân tộc đã chịu bao đau khổ dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do; đã đứng hẳn về phe Đồng minh chống phát xít, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái như thế: Dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được Độc lập.

Bản Tuyên ngôn Độc lập của Bác không chỉ thuyết phục lý trí người đọc bằng lý lẽ chặt chẽ mà còn lay động hàng triệu trái tim độc giả bởi lời văn đầy cảm hứng yêu nước và nhân đạo: khi đanh thép hùng hồn, khi căm giận uất ức, khi lâm ly thống thiết, vì là tuyên ngôn nên vừa khẳng định quyền của ta, vừa vạch trần tội ác của kẻ thù. Trong một đoạn văn ngắn mà Bác láy lại 13 chữ quyền và sau đó 14 câu, câu nào cũng có chừ chúng nặng như búa tạ. Và mỗi chữ chúng ấy, mỗi tội ác của chúng ấy như trút xuống những chữ ta làm xúc động lòng người... Một dân tộc... hai lần nhấn mạnh chữ gan góc, bốn lần nhấn mạnh chữ dân tộc, rồi hai câu điệp lại như những nhát đao mỗi lúc chém xuống mạnh hơn Dân tộc đó... Dân tộc đó. Đọc lên sảng khoái biết chừng nào (Chế Lan Viên).

Tóm lại, bản Tuyên ngôn Độc lập ngắn gọn của Bác đã trở thành một bài văn chính luận mẫu mực nổi tiếng. Bởi bài văn đã xây dựng được một hệ thống lập luận chặt chẽ, đưa ra được những bằng chứng hùng hồn, không ai có thể chối cãi được. Đằng sau đó là một tầm tư tưởng văn hoá của Hồ Chí Minh, người đã tổng kết được một cách giản dị mà súc tích những kinh nghiệm đấu tranh của nhiều thế kỷ giành độc lập dân tộc, nhân quyền và dân quyền của dân tộc ta và nhân loại.

Viết bình luận