Anh (chị) hãy phân tích nét phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong chương Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng)

Nếu như bắt rễ được vào trí nhớ trong hình thái toàn vẹn là lẽ sống còn của thơ, thì các bản trường ca quả đã gặp nhiều khó khăn. Dân mình trong một qui mô lớn mà đi tới toàn bích, thật thiên nan vạn nan. Đọc một trường ca nào đó, thường người ta hay nắm cái Tứ lớn, cái Cốt chung, rồi nhớ vài mảng, vài đoạn lẻ hay nhất đây đó, chứ khó nạp vào bộ nhớ tất tật. Nói khác đi, trường ca thường sống bằng cách xé lẻ bàn thân mình. Việc người đọc dường như quên đi phần lớn các chương khác của "Mặt đường khát vọng"để chỉ nhớ mỗi chương "Đất nước", phải chăng là thuộc vào cái qui luật nghiệt ngã đó? Nhưng một bản trường ca dài rộng mà ghim vào trí nhớ người đọc được cả một chương lớn chẳng phải đã là thành công sao! Nghĩ thật vui: cùng viết về một đề tài, cũng là thành công tiêu biểu cho thi ca của hai cuộc kháng chiến, nhưng, nếu "Đất nước’ của Nguyễn Đinh Thi được hình thành từ hai "tiền thân" nhỏ hơn, thì "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm lại vỡ ra từ một chỉnh thế lớn hơn. Vì điều đó, chúng đã cùng sống bước vào kí ức của ngườ yêu thơ? không hẳn. Còn bời một tương phản khác đáng kể hơn: Nguyễn Đinh Thi chừng như đã hoà tan suy tư của mình vào cám xúc Trong khi ở Nguyễn Khoa Điềm cảm xúc muốn kết tinh lại trong suy tư Người ta có thể nói đến hiện tượng đốt cháy trái tim lên thành trí tuệ và đốt cháy tri tuệ lên thành tình cảm. Phải chăng hai tác giả kia với hai thi phẩm của mình đã phần nào ứng với hai suy cảm đó? Sự chuyển hóa trong tư duy thơ ở thi phẩm Nguyễn Khoa Điềm có thể gọi là trữ tình triết luận.

Đất Ịà nơi anh đến trường

Ai đã đọc “Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm đểu thấy nể độc đáo trước nhất thuộc về chất liệu của nó: chất liệu văn hoá dân gian

Nhưng tìm đến chất liêu này cũng là hướng đi của không ít cây bút. Trước đó ở nhưng mức đậm nhạt khác nhau, có thể thây chất liêu này có mặt trong "Bài thơ quê hương" cua Nguyễn Binh, hay "Tiếng Việt" của Lưu Quang Vũ những thi phẩm gần gũi về đề tài Cho nên, tính độc đáo thực sự phải nằm ở việc xử lí chất liệu ấy Nguyễn Khoa Điềm đã xứ lí bằng lối suy cảm triết luận trữ tình vậy

Trước tiên, cả chương thơ được tổ chức thành một cuộc tâm tình của một đôi trai gái. Họ hẹn hò với nhau, tâm sự, tự tình. Những khi riêng tư nhất, cần phải nói những chuyện sâu kin nhất, ho lại nói về Đất nước. Đất nước trở thành mội quan tâm hàng đầu của cả dân tộc. của từng con người, của mỗi lứa đôi. Qua đó Nguyễn Khoa Điềm đã làm được điều này: biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tâm tình, chuyển hoá ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, đời tư hoá một chủ đề sử thi. Là cuộc tâm tình, nên lối biểu hiện nghiêng về suy ngẫm, mỗi lời thơ kết tinh bao suy tư chiêm nghiệm của thi sĩ. Lời tâm sự lứa đôi đấy luyến ái (ở đây chủ yếu là lời người con trai bỗng trở lên thiêng liêng trang trọng, như là một tâm nguyện của một thế hệ. Đọc theo chương thơ, giọng tâm tình sâu đậm luôn cất lên mặn mà đằm thắm : "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi", "Em ơi em hãy nhìn rất xơi Vào bốn nghìn năm đất nước", "Nhưng em có biết có những người con gáỉ con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi", "Em ơi em đất nước là máu xương của mình". Có thể nói đây là môi trường trữ tình dành cho cả chương thơ, môi trường ấy quyết định giọng điệu cảm xúc của toàn thi phẩm: giọng trầm lắng trang trọng. Tuy nhiên đây chưa phải là điều thật quan hệ đến chất liệu văn hoá dân gian

Điểm mấu chốt khiến tác già mài sắc lối suy cảm triết luận và huy động vốn văn hoá dân gian hết sức bề bộn của mình chính là một cảm hứng riêng về cái đề tài chung ấy. "Đất nước là gì? Đất nước của ai dường như đó là những câu hỏi xoáy sâu vào trong niềm trăn trở của Nguyễn Khoa Điềm. Nó đòi được trả lời. Để tìm kiếm câu trả lời, thi sĩ đã dùng trí tuệ đốt cháy những cảm xúc của mình thành những ngẫm ngợi, những đúc kết, có tầm khái quát cao sâu, đã dùng một suy cảm vừa giàu triết lí vừa thơ mộng để nhào nặn tái tạo lại toàn bộ vốn văn hoá nhân gian của mình đặng lắng nghe từ cao biểu tượng dân gian quá ư quen thuộc những tiếng nói hết sức bất ngờ, những nghĩa lí như chưa từng nghe thấy. Và tiếng nói tập trung nhất của mọi biểu tượng văn hoá dân gian mà thi sĩ nghe thấu chính là: Đất nước ở trong ta. Đất nước ở quanh ta và Đất nước của nhân dân - "trong anh và em hôm nay đều có một phần Đất nước/ Khi hai đứa cầm tay Đất nước hài hoà nồng thắm/ Khi chúng ta cầm tay mọi người/Đất nước vẹn tròn to lớn", "Đất nước của nhân dản/Đất nước của ca dao thần thoại"... Vì thế, dù muốn dù không, sự sắc sảo của một tư duy đã giúp thi sĩ dột phá vào chiều sâu của vấn để triển khai sự trả lời của mình trên những bình diện cơ bản nhất câu thành một Đất nước. Toàn bài là một dòng tâm sự tuôn chày khá tự nhiên phóng túng. Nhưng đúng là nhìn sâu vào cái dòng chảy luôn có xu hướng tràn lan ấy vẫn thấy suy tư của người làm thơ xoáy vào ba bình diện chính là: bề rộng không gian lãnh thổ, chiều dài thòi gian lịch sử và bề dày văn hoá. Ba bình diện ấy đan xen chuyển hoa sang nhau trong cùng một dòng chảy tràn trề trào ra từ một bầu tâm huyết bỏng cháy đói với đất nước mình. Chính điều này cho thấy rõ lối suy cảm triết luận trữ tình ở Nguyễn Khoa Điềm ở đây đã đạt đến độ nhuần nhuyễn thế nào.

Nét chủ đạo trong tư duy triết luận trữ tình là đào sâu cái bản chất của các sự vật dưới dạng những biểu tượng thi ca sống động. Tư duy ấy chuyển động dựa trên mạch logic biện chứng với những mối liên hệ thật bất ngờ kỳ thú. Câu thơ định nghĩa ở đây thật lợi hại, nó vừa là những mệnh đề triết học vừa là những hình tượng thơ truyền cảm. Hình dung về sự sinh thành của Đất nước, Nguyễn Khoa Điềm thấy nó là sự sinh trưởng của Đất và Nước, cùng sự sinh sôi của các địa danh. Tìm kiếm văn hoá, thi sĩ tìm thấy những giá trị văn hoá lớn lao ẩn ngay trong những vật phẩm nhỏ nhoi tầm thường... Ở đâu cũng loé sáng những phát hiện, những khám phá bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào, thì hai thành phần khởi đầu, hai "nguyên tố", hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đểu phải là  Đất và Nước. Hai nguyên tố này kết hợp với nhau đế rồi từ có mà sinh thành cái cơ thể đất đai, nước non, xứ sơ. Nguyễn Khoa Điềm đã suy cảm về lãnh thổ bắt đầu từ hai " nguyên tố" ấy .

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Chỉ bằng trực cảm cũng có thể thấy đoạn thơ trên là một loạt những định nghĩa bằng thơ, chúng là sản phẩm của một tư duy  vừa giàu chất trữ tình thơ ca. vừa mang tính huyền thoại, vừa thấm đượm phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm. Một yếu tố thuộc Dương. Khi nói riêng về từng người thì Đất và Nước cũng đứng tách riêng thành hai chữ, nhưng đến khi Anh với Em hò hẹn, để hợp lại thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành Đất Nước. Như vậy chẳng phải Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con người hay sao ? Từ đó bắt đẩu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cà Đất Nước dường như cũng sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ "Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp, trong đó tình yêu đôi lứa đã hoà hơp làm một với tinh yêu non sồông đất nước. (Xin mở một ngoặc đơn để ghé nhìn sang Nguyễn Đình Thi. Khác với ở Nguyễn Khoa Điềm, hai biểu tượng làm công cụ chính để cho tác giả suy cảm về "Đất nước" lại là Mặt đất và Bầu trời). Cứ thế Đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả tình yêu của phạm vi đôi lứa. cả tình yêu trong phạm vi cộng đồng. Tư duy triết luận cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành, trưởng thành, mở mang của toàn thể Đất Nước:

Đất là nơi con chim Phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá Ngư Ông móng nước biển khơi

Thời gian đằng đẳng

Không gian mênh mông

Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nới chim về

Nước là nơi rồng ở

Lọc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Song song với quá trình hình thành Đất và Nước để tạo ra địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đặt, tên làng, tên núi, tên sông là những cuộc đời; mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sông đích thực của con người. Vì thế, khi địa danh lan đi đến đâu thì đẩt đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Lan theo những địa danh, Nguyễn Khoa Điềm đa dưng lai được cả diện mạo của non sông đất nước. Mỗi địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi Bút non Nghiên. Hòn Vọng Phu Hòn Trống Mái, Vịnh Hạ Long, Sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen. Bà Điểm... Mỗi địa danh là một cuộc đời, mỗi cuộc đời hóa thân thành sông núi:

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta

Điều đó cũng có nghĩa: chính Nhân Dân đã gây dựng, mở mang, truyền giữ đất nước này.

Nước là nơi em tắm

Lối suy cảm triết luận trữ tình trước khi tác động vào trái tim người đọc, thường khi phải vòng qua trí tuệ của họ. Hay như Chế Lan Viên nói: Tư duy phải đi trước một bước. Cách tác động phổ biến nhất (hữu hiệu nhất?) của nó phải chăng là tạo ra các nghịch lí? Các chân lí thi ca thường đi vào sự tiếp nhận của người yếu thơ triết luận trong y phục nghịch lí. Người ta không khỏi ngỡ rằng. Nghĩa là câu thơ kia có một phút ngập ngừng. Nhưng sau phút ngập ngừng bên ngưỡng cửa của sự tiếp nhận, nó bước thẳng vào kí ức người ta rồi ờ lì, bám rễ vào tâm khảm. Cho nên, nghịch lí (hay hình thức có tính phi lí) là sự hiện hỉnh phổ biến cho những suy cảm ở thi phẩm này. Tôi muốn nói đến những câu thơ khi Nguyễn Khoa Điềm trầm tư triết luận về Văn hoá.

Thống nhất với lối viết về các bình diện bề rộng không gian, chiều dài thời gian - ghi công cho những người vô danh, nghiền ngẫm về bề dày văn hoá, thi sĩ này cũng không nhắc đến các công trình nối danh thuộc nền văn hoá bác học. Không kế những công trình kiến trúc như Chùa Một Cột, Chùa Bút Tháp ..., không kể những công trình điêu khắc như Phật Bà nghìn mắt nghìn tay, Mười tám vị La Hán Chùa Tây Phương... cũng không điểm đến những tác phấm văn chương bất hủ như Truyện Kiểu, Chinh phụ ngâm, Lục Văn Tiên v.v.„ Đó cũng là những công trình hết sức tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, đó là thứ Văn hoá dễ thấy, nó cũng giống những người anh hùng hữu danh lưu trong sử sách, ở đây, Nguyễn Khoa Điềm quan tâm nhiều hơn đến thứ văn hoá khác: những sản phẩm văn hóa nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, quen thuộc đến quen nhàm trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường dửng dưng quên lãng Đất nước đã dược phát hiện từ một câu chuyện cổ tịch, một câu ca dao vât vưởng trôi nổi ở chốn thôn qurr được phát hiện từ cái kèo. cái cột nôm na. từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách làm ra hạt gao dãi dầu một nắng hai sương, từ cách bới tóc sau đầu của những người mẹ Việt. Tất cà khiến cho người đọc sững sờ: hoá ra chẳng phải nhọc công tìm kiếm Đất nước ở đâu xa. Trái lại, đất nước ở quanh ta. Đất nước ở trong ta, và ở ngay những gì đơn sơ thân thuộc nhất.

Song, có lẽ bất ngờ hơn cả vẫn là phát hiện này:

Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bây giờ bà ăn

Câu thơ là một nghịch lí, phi lí. Đất nước là một khái niệm lớn lao, thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng nhỏ nhoi, tầm thường, không có gì quan trong? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là phái ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bắt đầu với miếng trẩu của "bây giờ”? Câu thơ xem ra thật phi lôgic nhưng ngẫm nghĩ ta sẽ thấy rằng cái phi logic kia chi là hình thúc của câu thơ. Tác giả đã mượn một hình thức phi lí để chứa đựng một chân lí. Đóp là: một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi, vô số những cái nhỏ nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói cách khác không có những cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu ngỡ như vô nghĩa kia đều gánh trong nó một phần Đất nước. Mỗi miếng trẩu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi ! Mỗi cái hiện diện trong hôm nay, của bây giờ, phía đằng sau có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử vẫn dđang hiện diện đến hôm nay.

Những câu thơ như thế thật là một sự phát kiến bất ngờ, khiến người đọc phải giật mình. Nó không chi là một sản phẩm của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng Nếu không có sự trân trọng với tất cà những gì mà tổ tiên chắt chiu, chi chút, gìn giừ trong mấy nghìn năm qua, thì mọi thứ triết luận dù sắc sảo đến đâu cũng không thể có được những câu thơ có thể đánh động vào tầng sâu của tâm linh người đọc đến thế được. Mối giao kết giữa yếu tố trữ tình và yếu tố triết luận trong mọi suy cảm thi ca chân chính chẳng phải là tuân theo cái cơ chế đó sao ?

Viết bình luận