Hãy phân tích bài thơ đất nước của Nguyễn Đình Thi để thấy rõ những cảm hứng về đất nước của nhà thơ

Đề bài:

Phân tích bài thơ đất nước của Nguyễn Đình Thi để thấy rõ những cảm hứng về đất nước của nhà thơ.

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi dầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phất phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ đứa lột da

Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

1948 - 1955

(Văn học 12, tập một, Nxb. Giáo dục, 2000, tr. 86 - 88)

Phân tích đề

- Nội dung: Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong bài thơ đất nước.

- Thể loại: Phân tích một tác phẩm trọn vẹn theo một chủ đề đã được định hướng. Tác phẩm đây là thơ trữ tình, vì thế khi phân tích cần hiểu rõ đặc trưng thể loại, chú trọng làm nổi bật cảm xúc, tình cảm, tư tưởng của tác giả.

- Phạm vi: Tuy chỉ yêu cầu phân tích bài thơ của Nguyễn Đình Thi, nhưng cần so sánh liên hệ với các bài thơ khác, nhất là những bài thơ cùng viết về đất nước trước và sau nó (ví dụ: Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm...) để thấy vẻ đẹp riêng của tác phẩm.

Gợi ý phân tích

1. Hiểu rõ hoàn cảnh sáng tác của bài thơ để phân tích:

- Đất nước là bài thơ ngắn (49 dòng) nhưng lại được sáng tác trong thời gian dài (1948 - 1955).

- Tiền thân là bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (đăng báo Văn nghệ số 6, tháng 10 và 11/1948) và bài Đêm mít tinh (Văn nghệ Xuân 1949). Cả hai bài thơ điều được viết tại Việt Bắc, trong tâm trạng nhớ về Hà Nội của tác giả.

- Phần đầu từ Sáng mát trong... Trong biếc nói cười thiêt tha được lấy từ bài thơ thứ nhất. Kế đến nối vào đoạn cuối bài thơ thứ hai và cả ý của bài đầu cho đến: Những buổi ngày xưa vọng nói về. Đoạn từ Ôi cánh đồng quê... cho đến hết bài được Nguyễn Đình Thi viết vào năm 1955.

Như vậy, bài thơ hình thành từ ba mảng khác nhau, trong thời gian dài, nhưng vẫn là tác phẩm hoàn chỉnh, liền mạch, nhất quán nhờ kết nối bởi mạch cảm xúc về đất nước.

2. Lưu ý về kết cấu:

Đất nước là bài thơ có kết cấu độc đáo.

- Nhà thơ đưa người đọc vào thế giới cảm xúc của mình theo lối hứng của ca dao, dân ca. Khởi đầu là xúc cảm về một sáng mùa thu, mùa thu của thiên nhiên, đất trời, gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Rồi từ mùa thu thiên nhiên dẫn vào mùa thu của đất nước, mùa thu của cách mạng với niềm xúc động đầy tự hào được làm chủ đất nước. Và, từ đó lại nghĩ về đất nước trong chiến tranh giải phóng, về những con người từ trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu - những anh hùng quần chúng. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh mang tính biểu tượng về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới.

Xúc cảm về một sáng mùa thu, mùa thu của thiên nhiên, đất trời

- Sự vận động của tư tưởng - cảm xúc của bài thơ phát triển theo hướng cảm nhận và suy ngẫm của tác giả về đất nước. Bởi vậy:

+ Phần sau của bài thơ có nhiều hình ảnh khái quát, hình ảnh mang tính biểu tượng hoặc hình ảnh hiện thực nhưng đã được mở rộng ý nghĩa theo hướng khái quát.

+ Sự chuyển biến của nhịp điệu, âm hưởng theo dòng cảm xúc: Từ nhịp chậm với những âm cao và trong => trầm xuống khi lắng nghe mạch sống bất diệt của đất nước => dồn dập, cuộn sôi, tuôn chảy => hào sảng, bừng sáng.

3. Những nội dung chính cần phân tích:

- Cảm hứng của bài thơ:

Như tựa đề, cảm hứng của bài thơ là cảm hứng về giang sơn, gấm vóc, cảm hứng về đất nước, Tổ quốc. Cảm hứng đó xuyên suốt bài thơ, là mạch ngầm kết nối từng mảng tưởng như rời rạc trong tác phẩm, tạo thành hình tượng thơ thống nhất. Do đó, khi phân tích phải luôn tập trung vào chủ đề này.

- Khổ thơ đầu:

Hoài niệm của tác giả về mùa thu xưa - đẹp đẽ, thơ mộng, đầy thương nhớ. Nhưng giọng thơ phảng phất buồn, hình ảnh tĩnh lặng, âm điệu nuối tiếc. Đó cũng là cảm hứng của nhà thơ về đất nước trong quá khứ.

- Khổ thơ: Mùa thu nay... nói về:

Hình ảnh tươi sáng về mùa thu nay. Đây cũng là cảm hứng về một đất nước đổi mới; cảm hứng đầy chất tự hào của người làm chủ. Phát hiện mới mẻ của Nguyễn Đình Thi ở đây là mối quan hệ về đất nước trong truyền thống - đất nước ở hiện tại.

- Phần còn lại của bài thơ:

Tác giả tập trung thể hiện những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước từ đau thương trong chiến tranh đã trỗi dậy mạnh mẽ, ngời sáng.

- Đánh giá chung:

Đất nước là bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của nền thơ Việt Nam kháng chiến. Thành công lớn nhất của tác giả là đã thể hiện những tình cảm chân thực, xúc động của mình về đất nước.

Bài tham khảo

Tiếng thơ hào sảng về đất nước

Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu... Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: đất nước!

*

* *

Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Phảng phất mùi hương cốm mới

Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội: không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm.

Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội:

Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ... là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiêt của đồng quê nội cỏ.

(Hà Nội ba mươi sáu phố phường)

Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn (Nhớ mùa thu Hà Nội) cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ... làm thành nét thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành:

Hà Nội mùa thu/ cây cơm nguội vàng/ cây bàng lá đỏ/ nằm kề bên nhau / phố xưa nhà cổ / mái ngói thăm nâu/... Hà Nội mùa thu/ mùa thu Hà Nội/ mùa hoa sữa về/ thơm từng cơn gió/ mùa cốm xanh về/ thơm bàn tay nhỏ/ cốm sữa vỉa hè thơm bước chân qua...

Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội thấm thía xao xác khi xa trông về.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi kể hồi nhỏ đi học trong trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng mây bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước” (Nguyễn Đình Thi - Bài thơ đất nước).

Dòng thứ ba: Tôi nhớ những ngày thu đã xa là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

đây, còn có một lý do nữa: Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp: cỏ mòn thơm mãi dấu chân em. Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cánh kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lý, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ.

Bốn câu thơ kế tiếp trực tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phố dài). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng hiển hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động.

Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng. Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây diệu kỳ ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyễn Đình Thi không chỉ nắm được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là một phần trong tâm hồn của nhà thơ.

Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia ly, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đô khi rút khỏi Hà Nội... Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên. Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ: Hình ảnh ấy gần với người ra đi của Thâm Tâm:

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng...

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí nhớn chưa về bàn tay không.

(Tống biệt hành)

Ôm đất nước những người áo vải

Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể - người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng... Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nơi mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nỗi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa (Thư trả lời bạn đọc, ngày 14.12.1983).

Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân dân Chủ nhật, ngày 11.8.1991).

- Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phất phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phất phới, áo mới). ..Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt: gió thổi, rừng tre phất phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha. Tất cả sự thay đổi ấy hòa nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khỏe mạnh và tươi sáng.

Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn.

Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ấy. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý: Trời xanh đây là của chúng ta. Hình ảnh ấy vừa chân thực, lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Còn nhớ, trước năm 1945, Nguyễn Đình Thi từng viết:

Trời xanh ơi hỡi xanh không nói

Hồn ta muốn hiểu chẳng cùng cho.

Khi ấy, “trời xanh” là hình ảnh đẹp, nhưng ngoài tầm với và sự hiểu biết của con người.

Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyễn Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dâng cho đất nước.

Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh độc đáo khác nhau về mỗi quan hệ ấy. Từ Huy Cận:

Cha ông yêu mến thời xưa cũ

Trần trụi đau thương bỗng hóa gần

Những bước mất đi trong thớ gỗ

Về đây, tươi vạn dặm đường xuân.

(Các vị La Hán chùa Tây Phương, 1960)

đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của Nước; Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn... rồi Nguyễn Khoa Điềm ở những năm thảng đánh Mỹ:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em, đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nền đất nước muôn đời.

(Mặt đường khát vọng, 1971)

Phần hai bài thơ tập trung vào một ý lớn: đất nước từ trong đau thương, căm hờn đứng lên ngời sáng.

Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những hàng dây thép gai giăng đầy

Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng thú pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh: trong ánh chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời. Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bót giặc với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở - gây một tức tối căm giận”. Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người viết: chiến tranh tàn phá tất cả; chiến tranh đồng nghĩa với sự hủy hoại, với cái Ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyền Đình Thi cũng đã có những cái nhìn tinh tế và đau xót ấy:

Có làng trung đoàn ta đi qua

Máu đông in dấu giày đinh giặc

Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai

Chiếc tã đầu giường dang cháy dở.

(Quang Dũng - Những làng trung đoàn đi qua, 1947)

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới

Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau

Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn

Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau.

(Vũ Cao - Núi Đôi, 1956)

Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến sĩ:

Những đèm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

được đặt ở cùng một khổ thơ, tạo thành kết cấu: ngoài / trong. Hai câu đầu là ngoại cảnh; hai câu sau là tâm trạng. Giữa hai dòng thơ còn có sự đối xứng khác:

những / bỗng

nung nấu / bồn chồn

Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sĩ: tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tinh cảm có vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dấu. Sự xử lý mang tính lịch sử của thời kỳ ấy: tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không có tình cảm riêng.

5 khổ thơ tiếp tập trung thể hiện suy ngẫm của tác giả về đất nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu bất khuất, sản sinh những anh hùng của thời đại mới. Tứ thơ phát triển theo hướng suy tưởng nên hình tượng thiên về khái quát, tượng trưng, với những biểu tượng quen thuộc: bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa... Nhiều câu thơ nặng diễn dịch ý, mang tính chính luận. Ý thơ dựa vào các mảng cảm xúc, tâm trạng; mảng nọ đặt cạnh mảng kia để bộc lộ chủ đề. Nguyễn Đình Thi không dùng các câu nối, trái lại là những hình ảnh rời thành làm thành khối. Chúng liên kết được với nhau là nhờ mạch cảm xúc, suy nghĩ của tác giả.

Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài đất nước là những hình ảnh, những tình ý mới:

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ chỉ các hành động và trạng thái xúc cảm mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn vào phần vị ngữ:

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

...

Đã ngời lên nét mặt quê hương

...

Đã bật lên những tiếng căm hờn

...

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

...

Đứa đè cổ đứa lột da...

Các câu thơ với hình ảnh khi tương phản (xiềng xích/ trời, súng đạn/ lòng dân), khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa dội...) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm trong thời gian dài. Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng ở thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới hình thành, nhất là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho đứng dậy hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước. Bốn câu thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập tạo âm hưởng dõng dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu giặc... Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến trường Điện Biên Phủ”.

*

* *

Đất nước là bài thơ thành công hơn cả của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về những chủ đề lớn. Đó cũng là bài thơ hay của nền thơ Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm kết hợp được nhiều yếu tố: hình ảnh chân thực và chất suy tưởng, khái quát; cảm xúc, suy ngẫm của cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc về đất nước. Có lẽ vì thế, trải qua nhiều năm tháng, đất nước vẫn là tiếng thơ hào sảng trong tâm hồn người Việt Nam.

Viết bình luận