Văn học thời kì từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 có đóng góp gì mới với những truyền thống tư tưởng lớn của lịch sử văn học Việt Nam? Qua việc phân tích một tác phẩm văn học đã học, anh (chị) hăy nói rõ ý kiến của mình

Văn học Việt Nam có hai truyền thống lớn: Chủ nghĩa yêu nướcchủ nghĩa nhân đạo. Thời kì văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã kế thừa và phát triển những truyền thống đó, đồng thời đem đến cho truyền thống ấy một đóng góp mới của thời đại: tinh thần dân chủ.

Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo

Tinh thần dân chủ đem đến cho văn học những nét mới, trước hết đó là khát khao được góp sức đổi thay vận mệnh nước nhà. Tư tưởng đó được thể hiện rất rõ trong những sáng tác của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,... những nhà chí sĩ yêu nước tham gia không mệt mỏi vào các phong trào yêu nước chống ngoại xâm. Ta có thể thấy rõ nét mới mẻ này trong bài thơ "Xuất dương lưư biệt" của Phan Bội Châu.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, thời kỳ nào cũng xuất hiện những đấng anh hùng làm rạng danh sông núi. Có người anh hùng lẫy lừng chiến công. Có người anh hùng “thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Những anh hùng ấy được văn chương ghi tạc hay tự mình bày tỏ chí khí. Bài Xuất dương lưu biệt của Phan Bội Châu là một cách bày tỏ, thật mạnh mẽ, chí khí của đấng anh hùng trong hoàn cảnh đầy bi kịch của đất nước ta ở những thập niên đầu của thế kỷ hai mươi.

Phan Bội Châu xuất hiện trên vũ đài chính trị vào lúc ở nước ta những cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đã lần lượt thất bại. Con đường cứu nước đứng trước viễn cảnh đen tối. Ông muốn tìm kiếm một hướng đi mới. Sau khi thành lập Hội Duy tân (1905), Phan Bội Châu ra nước ngoài, mở đầu phong trào Đông du. Xuất dương lưu biệt được sáng tác trong buổi nhà thơ chia tay với các đồng chí để lên đường, nhưng bài thơ lại không phải là những lời bịn rịn, lưu luyến thường tình. Trái lại, bài thơ thể hiện ý chí, lòng quyết tâm,vì sự nghiệp lớn lao của một nhà cách mạng:

Sinh vi nam tử yếu vi kì,

Khẳng khứa càn khôn tự chuyển di.

Lập nên sự nghiệp là khát vọng của những bậc tài danh trong lịch sử. Thời nào, khát vọng ấy cũng được thể hiện. Chúng ta từng có hoài bão của Phạm Ngũ Lão:

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu

Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu.

Nam nhi vị liễu công danh trái,

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Và, cách Phan Bội Châu trước đó không xa, là chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ:

Thông minh nhất nam tử,

Yểu vi thiên hạ kỳ.

(Người con trai thông minh phải làm việc kỳ lạ cho thiên hạ).

Khẩu khí có lẽ giống nhau, nhưng ý tứ mỗi thời đã có khác. Phạm Ngũ Lão thời Trần cảm thấy hỗ thẹn trước Gia Cát tiên sinh vì chưa trả xong nợ công danh. Nguyễn Gông Trứ quả quyết đã là người tài trai thì phải làm nên những việc kỳ lạ cho thiên hạ. Dĩ nhiên, cái “công danh” hay việc “kỳ lạ” mà họ Phạm và họ Nguyễn từng nêu không phải là chuyên cá nhân, tất thảy đều mang ý nghĩa cao cả. Song, dù sao đi nữa cả hai ông đều nói đến sự phấn đấu của đấng nam nhi nhưng không vượt ra ngoài “con Tạo”. Có lẽ, thời Phạm Ngũ Lão, “thiên định” đang rất phù hợp với lòng người. Thời Nguyễn Công Trứ tuý có suy vi, xáo trộn, song vẫn còn đang ở trong bốì cảnh chúng ấy. Nhưng đến Phan Bội Châu, chuyện kinh thiên động địa đã xảy ra: non sông đất nước lần lượt rơi vào tay giặc, những người “thừa mệnh trời” vẫn còn ở đó nhưng bâ't lực, yếu đuối. Vì thế, chuyện “kỳ lạ” mà Phan Sào Nam muôn làm không phải là tôn vinh hay duy trì một trật tự đã có ông khao khát làm việc lớn hơn nhiều:

Khẳng khứa càn khôn tự chuyển di.

Càn khôn là trời đất, cũng là Tạo hóa, thời thế. Nên nhớ, Phan Bội Châu xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, từng đỗ đầu xứ nên ông hiểu rõ cái gọi là “thiên mệnh”, tức là sự sắp đặt sẵn của con Tạo mà con người không thệ thay đổi. Song, đến lúc xuất dương, nhà thơ nói điều ngược lại: kẻ nam nhi phải làm những điều lạ chớ để Tạo hóa tự thay đổi. Bởi vậy, chí nam nhi của Phan tiên sinh mang khẩu khí của bậc trượng phu thời trước, nhưng tư tưởng đã hoàn toàn khác trước. Con người không cam chịu bất kỳ một sự sắp đặt có sẵn nào mà tự thân mình phải xoay chuyển, tạo ra sự sắp đặt mới!

Hai câu đề đã nói khá rõ chí nam nhi của Phan Bội Châu. Soi rọi vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước Việt Nam thời kỳ đó sẽ thấy sự mãnh liệt của nó. Câu thơ có thể biến thành một khẩu hiệu, một lời tuyên ngôn mởi của một thế hệ, một giai đoạn lịch sử.

Hai câu thực bày tỏ niềm tin tưởng của nhà thơ vào tiền đồ của đất nước:

ư bách niên trung tu hữu ngã,

Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy.

Có người đã bình một ý của câu thơ này như sau: “Cụm từ “trăm năm này (hiện nay) phải có ta đối lập cụm từ “ngàn năm sau không có ai” - câu trên khẳng định, câu dưới phủ định - thể hiện một ý thức cao cả và một nỗi lo, một dự cảm xa rộng của nhà cách mạng trẻ tuổi đối với hiện trạng đất nước lúc bấy giờ”. Thực ra, ở đây chẳng có câu phủ định nào cả. Trong khoảng trăm năm cần có tố / Sau này muôn thuở há không ai là sự khẳng định một nhân cách, một tài năng, một bản ngã, dĩ nhiên sắc thái có phần cường điệu để bày tỏ thật triệt để khát vọng của mình chứ không phải đề cao cá nhân. Vì thế, câu thơ kế tiếp cũng là một lời khẳng định dưới hình thức câu hỏi. Phan Bội Châu là bậc trượng phu luôn hiểu rõ và đề cao lịch sử, truyền thống của dân tộc. Đồng thời, ông cũng là người luôn có niềm tin vào những thế hệ mới. Chỉ thấy Phan Bội Châu đề cao chí khí của mình là hạ thấp một nhân cách kỳ vĩ và không hiểu vì sao chính ông đã luôn tìm cách đưa những người trẻ tuổi ra nước ngoài để học tập đặng trở về cứu nước.

Sinh vi nam tử yếu vi kì

Để thực hiện được hoài bão của mình, Phan Bội Châu phải kiếm tìm con đường cứu nước, ớ vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước thời đó, Phan Bội Châu đã nhìn thấy trước sự thất bại nếu đứng lên khởi nghĩa khi lực lượng quá yếu so với kẻ thù. Khoa cử là con đường lập thân của biết bao đấng nam nhi ngày trước bây giờ đã không còn phù hợp, vì cả triều đình đã trở thành bù nhìn cho ngoại bang. Vì thế, hai câu luận thực chất là sự cắt nghĩa về tính tất yếu của cuộc “lưu biệt”:

Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế,

Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si.

(Non sông đã chết sống thêm nhục,

Hiền thánh còn đâu học cũng hoài).

Non sông đất nước một khi đã rơi vào tay giặc coi như đã mất. Sống cam chịu, nhục nhã trong kiếp nô lệ thực chất là đã chết. “Hiền thánh” là những người kỳ tài, xuất chúng, nhưng cũng có nghĩa là các bậc khai sáng ra một hệ tư tưởng (Nho giáo) không còn (và bản thân hệ tư tưởng ấy không còn cơ sở hiện thực) thì việc học và xa hơn là sự lập thân bằng con đường cử nghiệp liệu có ích gì? Luận bàn về lý do mình phải ra đi như vậy thật triệt để. Có thể nói, Phan Bội Châu đã thực sự phủ định hệ tư tưởng mà mình vốn đã từng tiếp thu vì thê không thể xem chí làm trai của Phan Bội Châu vẫn nằm trong vẫn còn nằm trong phạm trù ý thức hệ Nho gia như có người đã từng đánh giá.

Hai câu kết là sự thể hiện khát vọng được biến hoài bão của đấng nam nhi thành hiện thực:

Nguyện trục trường phong Đông hải khứ,

Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi.

(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió,

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).

Con đường phía trước không bằng phẳng. Trái lại, đầy phong ba bão tố. Nhưng đấy mới chính là chỗ để đấng nam nhi thể hiện ý chí, khát vọng của mình.

Cuộc đời Phan Bội Châu như ông từng nhận xét, trăm lần thát bại, không một lần thành công, song ông đã sống đúng với lý tưởng, hoài bão của mình. Nhà chí sĩ không thành công trong sự nghiệp mong được cứu nước, cứu dân, nhưng hình bóng, nhân cách, tâm hồn ông vẫn luôn là một biểu tượng đẹp đẽ và hào hùng cho những thế hệ trẻ Việt Nam. Và cũng chính nhân cách, tầm hồn ấy, khi được thể hiện bằng thơ, dù trong lớp áo cũ kỹ của thể thơ thất ngôn luật Đường, đã vang lên mạnh mẽ, như khúc tráng ca, lời ly biệt trở thành tiêng thúc giục lên đường vì non sông đất nước.

Những nhà chí sĩ yêu nước như Phan Bội Châu không chỉ có những hành động cụ thể cho phong trào yêu nước của dân tộc: Phát động phong trào Đông du, Đông kinh nghĩa thục,... mà còn đóng góp cho thơ ca Việt Nam những luồng tư tưởng hết sức mới mẻ, tiến bộ.

Viết bình luận