Phân tích giá trị nhân đạo thể hiện trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Trích Chinh phụ ngâm)

Thế kỉ XVIII là thế kỉ hình ảnh người phụ nữ được thể hiện nhiều nhất trong văn học trung đại. Một điều đặc biệt là cảm hứng về người phụ nữ luôn gắn liền với cảm hứng nhân đạo. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho ta thấy rõ điều đó.

Dạo hiền vắng thầm gieo từng bước

Nhân đạo là một trong những giá trị tinh thần truyền thống văn học Việt Nam. Giá trị nhân đạo thường được thể hiện qua việc tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người; biểu dương ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người; thông cảm, thấu hiểu những tâm tư, tình cảm cũng như những nguyện vọng của con người, giúp họ nói lên những ước nguyện đấu tranh để giành được ước nguyện ấy. ở đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, dễ dàng nhận thấy tấm lòng đồng cảm, xót thương nhà thơ dành cho nhân vật trữ tình. Chính bởi đồng cảm nên tác giả đã thấu hiểu một cách sâu sắc mọi nỗi cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ, thể hiện rõ nét từng biến thái tinh vi trong nội tâm nhân người phụ nữ ấy.

Nỗi cô đơn, buồn khổ của người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm bắt nguồn từ bi kịch mà nàng phải chịu đựng. Cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cuốn người chồng của nàng vào vòng chiến trận liên miên. Tình yêu, hạnh phúc bỗng nhiên vuột khỏi tay nàng. Càng xa ehồng, nàng càng nhớ thương, càng khao khát hạnh phúc. Nhưng càng khao khát, người chinh phụ càng cảm thây cô độc, lẻ loi, càng đau đớn, khổ sở. Bao đêm nàng không ngủ là bấy nhiêu đêm nàng trăn trở khôn nguôi... Không đồng cảm với. nỗi lòng chinh phụ, nhà thơ sẽ không thể diễn tả một cách chân thực, xúc động từng cung bậc tình cảm trong lòng nàng.

Dạo hiền vắng thầm gieo từng bước,

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.

Ngoài rèm thước chẳng mắch tin,

Trong rèm, dường đã có đen biết chăng?

Nỗi niềm trăn trở không yên của nhân vật trữ tình được tác giả phổ vào các hành động miêu tả trạng thái bồn chồn lặp đi lặp lại không dứt: dạo, ngồi, rủ, thác. Các hành động tưởng như vô nghĩa nhưng tất cả lại cùng thể hiện một cách chính xác tâm trạng người chinh phụ. Nàng như đang mong ngóng tin tốt lành về người chồng của mình và hình như càng mong ngóng, càng thất vọng. Gửi nỗi chờ mong vào ngọn đèn nhưng ngọn đèn giữa đêm khuya chỉ khiến lòng nàng thêm cô quạnh. Lời thơ hoà vào tiếng lòng bi ai của nhân vật, trào dâng thành nỗi buồn khôn xiết:

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi

những dòng tiếp theo đưa tiếng gà và hình ảnh hoa hoè vào đêm, tác giả Chinh phụ ngâm muốn thể hiện sự hoang Vắng, tịch mịch của không gian, từ đó tô đậm nỗi cô đơn, quạnh vắng trong tâm trạng nhàn vật trữ tình. Giữa không gian ấy, người chinh phụ càng thấm thìa nỗi sầu trong lòng mình. Và thấu hiểu nỗi buồn thương trong lòng người phụ nữ đáng thương, tác giả đã làm một phép đo chiều dài của nỗi nhớ chồng:

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa

Ngoài rèm thước chẳng mắch tin

Nỗi buồn khổ không dứt trong lòng khiến người chinh phụ không thể tập trung làm được việc gì. Moi hành động của nàng dường như đều bị chi phối bởi nó. Thấu hiểu điều này, ba lần liên tiếp tác giả để chữ gượng xuất hiện trước các hành động của nàng: gượng đốt (hương), gượng soi (gương), gượng gảy (đàn). Tâm hồn nàng cứ miên man, mơ màng, nước mắt nhạt nhoà gương mặt mà nàng đâu có biết. Dự cảm về điềm gở, sự không hay trong tình cảm vợ chồng khiến nàng chỉ gượng gảy đàn sắt, đàn cầm. Và hơn hết, đọc được tâm sự trong lòng nàng nên nhà thơ đã giúp nàng gửi nỗi nhớ đến người chồng nơi trận mạc:

Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.

Non Yên dù chẳng tới miền,

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.

Có thể nói câu thơ Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời là một trong những câu thơ hay nhất văn học thời kì trung đại. Chưa khi nào nỗi nhớ chồng được thể hiện một cách da diết, sâu thẳm, mênh mang, cao vợi như thế. Tài năng và hơn hết là sự đồng cảm đã giúp người nghệ sĩ sáng tạo một câu thơ tuyệt hay. Nỗi lòng người chinh phụ đã vuột ra khỏi phạm vi tâm trạng của một con người mà cất lên nói thay cho bao người, phụ nữ cùng chung số phận như nàng. Những dòng thơ Chinh phụ ngâm đâu chỉ được viết bằng sự đồng cảm? Nó còn được viết bằng nỗi xót thương đến tột cùng của người nghệ sĩ.

Viết về nỗi buồn khổ, cô đơn trong sâu thẳm tâm hồn người chinh phụ cũng chính là cách tác giả thể hiện thái độ đồng tình và ngợi ca của mình đối với niềm khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi của nàng. Và đó cũng chính là một biểu hiện trong giá trị nhân đạo của đoạn trích.

Không bộc lộ trực tiếp sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa nhưng thông qua việc thể hiện tâm trạng nhân vật trữ tình, tác giả Chinh phụ ngâm muốn cất tiếng tố cáo chiến tranh. Chính những cuộc chiến phi nghĩa này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng những người chồng phải xa vợ, những người mẹ phải lìa con, hạnh phúc, tình yêu lứa đôi lỡ dở. Có bao nhiêu người chinh phụ phải sống trong cảnh mỏi mòn nhớ thương, cô đơn như nàng đây?

Có thể nói đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là đoạn trích tiêu biểu nhất trong Chinh phụ ngâm về tinh thần nhân đạo của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm.

Viết bình luận