So sánh hình ảnh buổi chiều và cảm xúc của chủ thể trữ tình trong bài Mộ của Hồ Chí Minh và khổ cuối bài Tràng giang của Huy Cận. Từ đó nêu lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại của bài Mộ

DÀN BÀI CHI TIẾT

I. So sánh

1. So sánh hình ảnh buổi chiều trong bài Mộ và trong khổ cuối bài Tràng giang

+ Giống nhau:

- Đều dùng thi liệu cổ điển phương Đông: cánh chim chiều, mây (chòm mây, núi mây).

- Đều đượm buồn, vắng lặng, cô đơn.

- Đều mượn cảnh để bộc lộ tâm trạng.

+ Khác nhau:

- Tràng giang có thêm hình ảnh "con nước" buồn; không có biểu tượng của sự sống ("không khói hoàng hôn").

- Mộ: Sau cảnh chiều muộn buồn vắng của thiên nhiên nơi núi rừng hẻo lánh là cảnh sinh hoạt ấm cúng, đầy sức sống của con người bên xóm núi với ngọn lửa hồng rực sáng trong lò than.

Chim bay về tổ

2. So sánh cảm xúc của chủ thể trữ tình

+ Giống nhau: đều buồn lắng, cô đơn trước thiên nhiên trong thời khắc của ngày tàn (có sự hòa hợp giữa thiên nhiên và con người, cảnh và tình).

+ Khác nhau:

- Một người buồn vì nhớ nước, nhớ đồng bào, đồng chí trong cảnh tù đày xa xứ; một người buồn vì nhớ nhà trong cái "tôi" bé nhỏ của thi nhân lãng mạn khi đứng trước Tràng giang mênh mang chưa tìm được hướng đi cho đời mình.

- Một người chỉ có buồn, và nỗi buồn đó ngày càng sâu thăm thẳm khi không tìm thấy biểu tượng của sự sống; một người không chỉ có buồn mà còn có niềm vui khi chứng kiến và hòa vào với niềm vui cuộc sống của con người.

- Sự giống nhau là do tư chất nghệ sĩ của hai nhà thơ, còn sự khác nhau do một người là thi sĩ lãng mạn, một người là thi sĩ cách mạng.

II. Vẻ đẹp cổ điển - hiện đại của bài Mộ

1. Các yếu tố cổ điển và hiện đại trong bài Mộ:

- Yếu tố cổ điển: Dùng thi liệu phương Đông (cánh chim bay về rừng, chòm mây trôi trên bầu trời), cùng bút pháp chấm phá bằng hai nét vẽ để dựng lên cảnh chiều muộn như trong một bức tranh thủy mạc (có hồn và thấm đượm tình người). Ngọn lửa rực hồng trong đêm tối cũng là hình ảnh thường gặp trong thơ cổ điển xưa.

- Yếu tố hiện đại: Cảnh sinh hoạt ấm cúng, đầy sức sống của người lao động bên xóm núi cùng với lòng thương người và yêu đời vô hạn của nhà thơ. Tứ thơ, hình tượng thơ vận động theo hướng tích cực, đi lên: từ tối đến sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo, cô đơn đến ấm nóng.

2. Sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố đó trong bài thơ

- Bức tranh chiều muộn nơi núi rừng hẻo lánh mang đậm chất Đường thi càng thấm đượm nỗi buồn của người tù xa xứ đang nhớ nước, nhớ đồng bào, đồng chí.

- Hình ảnh cô gái xay ngô thật hài hòa với ngọn lửa rực hồng trong lò than bởi chính ngọn lửa ấy đã làm bừng sáng rực rỡ khuôn mặt của người lao động. Ngọn lửa hồng của thi liệu phương Đông đã thành ngọn lửa của tình yêu con người, yêu cuộc sống trong thơ hiện đại.

- Cảnh chiều muộn nơi núi rừng và cảnh sinh hoạt bên xóm núi cũng hài hòa trong sự phát triển biện chứng của hình tượng thơ để tạo nên một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất của tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của bài tứ tuyệt, của phong cách thơ Hồ Chí Minh.

Viết bình luận