Về bài thơ “Độc Tiểu Thanh kí” của Nguyễn Du
Mở đầu bài thơ là tiếng thở dài bi thiết cho thế cục, nhân sinh. Sức khái quát triết học của câu thơ lớn: Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang Xưa: cảnh đẹp, nay: gò hoang, sự tiến thiên dâu bể thật kinh hoàng.
Mở đầu bài thơ là tiếng thở dài bi thiết cho thế cục, nhân sinh. Sức khái quát triết học của câu thơ lớn: Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang Xưa: cảnh đẹp, nay: gò hoang, sự tiến thiên dâu bể thật kinh hoàng.
Tiểu Thanh là tên hiệu của cô gái họ Phùng sống vào đời Minh, Trung Quốc. Nàng làm lẽ, bị vợ cả ghen, bắt ra ở Cô Sơn cạnh Hồ Tây. Vì cô đơn sầu muộn, nàng chết lúc tuổi vừa mười tám, chỉ để lại một tập thơ Tiểu Thanh kí.
Ngoài kiệt tác Truyện Kiều, thi hào dân tộc Nguyễn Du còn để lại cho ba tập thơ chữ Hán, phần lớn nói về tâm sự của nhà thơ. Độc Tiểu Thanh kí là một bài thơ hay của Nguyễn Du, nhà thơ viết về cuộc đời bất hạnh của nàng Tiểu Thanh và cũng chính là tâm sự của ông với đời.
Nhắc đến Nguyễn Du người ta thường nghĩ ngay đến thiên cổ tình thư: Truyện Kiều của ông. Điều ấy có lí do của nó. Truyện Kiều là một thành công kiệt xuất của thơ ca tiếng Việt.
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là người có học vấn uyên thâm. Ông là nhà thơ lớn của dân tộc. ông để lại cho dân tộc hai tập thơ chữ Hán và chữ Nôm đó là: Bạch vân am thi tập (chừ Hán khoảng 700 bài) và Bạch vân quốc ngữ thi (chữ Nôm khoảng 170 bài).
Muốn hiểu Nguyễn Trãi, nếu ta chỉ đọc Cáo bình Ngô, Thư lại dụ Vương Thông, Hạ qui Lam Sơn... dường như tả chỉ thấy được ở tác giả của chúng ta một bậc quân sư, một nhà chính trị kiệt xuất trên vũ đài chính trị.
Rất nhiều tác phẩm thể hiện tài năng đa dạng, phong phú của Nguyễn Trãi, trong đó tập thơ chữ Nôm Quốc âm thi tập là một tập thơ đáng chú ý. Được sáng tác không liên tục từ thời trẻ, hồi chưa đỗ đạt, lưu lạc cho đến lúc làm quan to, công thành danh toại và khi về già, bị biếm trích, ở ẩn Côn Sơn.
Khác với bút pháp Tụng giá hoàn kinh thư của Trần Quang Khải xác thực, cách nêu sự kiện giản dị, trực tiếp, ở bài Thuật hoài, của Phạm Ngũ Lão lại dùng thủ pháp nghệ thuật hoành tráng để diễn tả. Ở đây nỗi lòng của tác giả đã được bày tỏ qua các hình thái kì vĩ:
Truyện bắt đầu kể từ khi Anh yêu và Em yêu còn là hai bào thai. Họ hợp nhau, biết nhau từ trong lòng mẹ. Họ được sinh ra gần như cùng một giờ, một ngày, một bản. Từ thuở bé thơ, họ đã cùng nghịch đất, nghịch cát, vầy cá trên mâm:
Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in vẻ mặt buồn buồn, đôi mắt đăm chiêu nhìn rất xa xăm, và âm hưởng lời ru có cái mơ hồ, tiếc nuối của mẹ tôi lúc mẹ ru các em tôi bằng bài ca ấy.